Chiến lược biển: Khẳng định chủ quyền thực tế và năng lực chinh phục

PGS.TS. Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam - 00:00, 19/07/2017

TheLEADERViệt Nam không thể khai thác biển tốt nếu không khẳng định được sự hiện diện của mình trên đại dương với tư cách là một thực lực, một cường quốc biển. Mọi lời tuyên bố về chủ quyền chỉ mang lại lợi ích thực tế cho quốc gia khi nó gắn liền với thực lực và thông qua sự hiện diện sức mạnh quốc gia tại vùng có chủ quyền.

Chiến lược biển: Khẳng định chủ quyền thực tế và năng lực chinh phục
Bốc xếp hàng hóa tại cảng. Ảnh TL

Nhận diện thực lực

Hiện nay, về nguyên tắc, Việt Nam đã mở cửa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhưng, đánh giá một cách thực chất, trong một thời gian dài, chúng ta mới chỉ chú trọng hướng mở cửa - lên núi bằng việc mở hàng loạt cửa khẩu và phát triển khu kinh tế cửa khẩu trên biên giới đất liền mà ít mở ra biển, qua các cảng biển.

Gần đây, mấy chục tỉnh sát biển đua nhau làm cảng biển, đã xây dựng gần 100 cảng biển. Song động lực “vươn ra biển lớn” của phong trào rầm rộ này – rầm rộ đến mức đã trở thành “hội chứng” – thật sự không rõ ràng, bị chi phối bởi tư duy lợi ích dự án cục bộ thay vì một mục tiêu đua tranh phát triển lành mạnh và có tầm nhìn xa.

Đó là bởi nền kinh tế vẫn theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên trên đất liền theo cách cũ, với công nghệ - kỹ thuật lạc hậu. Đến nay, mô hình đó đã “tận khai” năng lực “đất liền” của quốc gia.

Ngày nay, Việt Nam không tiến ra biển với “hành trang” thời Mai An Tiêm. Tư duy biển - chủ quyền lãnh hải, sự hiện diện, sự chinh phục, hợp tác quốc tế giải quyết tranh chấp..., các định hướng phát triển biển theo nguyên lý hiện đại - phát triển ngành đóng tàu và hàng hải viễn dương, du lịch biển, thăm dò, khai thác biển, v.v. đã bắt đầu định hình và thực thi. Đó là những nền tảng ban đầu để hình thành một chiến lược biển cụ thể, khả thi.

Nhưng đó chỉ mới là một mặt của vấn đề. Về khía cạnh thực lực, hai yếu tố nền tảng cơ bản của công cuộc chinh phục biển của Việt Nam – lực lượng doanh nghiệp và tiềm lực khoa học công nghệ - hãy còn rất yếu kém. Hình ảnh “hạm đội thuyền thúng ra khơi” mô tả một cách chính xác thực trạng đó.

Bên cạnh đó là sự manh mún, tự phát và trình độ thấp của hệ thống cảng biển, của ngành logistics, hệ thống đường giao thông dọc biển và đường kết nối cảng, ngành du lịch biển, các khu kinh tế biển, năng lực đánh bắt và chế biến hải sản, nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển, v.v.

Có thể thấy mặc dù tiềm năng tự nhiên – điều kiện cần cho sự phát triển các ngành kinh tế biển – là tốt, song các điều kiện đủ để hiện thực hóa và thúc đẩy sự phát triển đó (như hệ thống hạ tầng cảng biển, giao thông, logistics, các khu công nghiệp và khu kinh tế gắn với kinh tế biển, các ngành khoa học và các hoạt động nghiên cứu liên quan, v.v.), lại rất thiếu và yếu.

Trong bối cảnh thế giới đang bước vào thời đại toàn cầu hóa, được dẫn dắt bởi công nghệ cao, hàm lượng trí tuệ nhiều và bị chi phối bởi hai thuộc tính – tự do hóa và tốc độ cao; cộng thêm vào đó là xu hướng tranh chấp và xung đột trên biển (biển Đông) tăng nhanh, những điểm yếu trên càng cho thấy những thách thức to lớn cũng như những cơ hội tiềm tàng mà Việt Nam đang và sẽ đối mặt trong nỗ lực phát triển kinh tế biển với những mục tiêu chiến lược to lớn, có thể nói là đầy tham vọng.

Định hình chiến lược cụ thể

Trước những thách thức và cơ hội như vậy, chúng ta phải định hình được một tư duy phát triển mới, tổng thể về kinh tế biển với hai điểm cần lưu ý.

Thứ nhất, kinh nghiệm phát triển trên đất liền và theo tư duy “đất liền” nhiều năm của Việt Nam, cộng với thực tiễn phát triển kinh tế biển của nhiều nước đi trước cho thấy việc định hình chiến lược kinh tế biển cần được thực hiện đồng thời và tổng thể ở ba phương diện.

Một là khai thác vùng không gian biển (mặt biển, dưới biển và bầu trời trên biển);

Hai là khai thác vùng bờ biển (vùng duyên hải với các cảng biển, bãi biển, thành phố biển, khu kinh tế ven biển);

Ba là phát triển các lĩnh vực “hậu cần” cho kinh tế biển và các khu vực kết nối (các ngành phục vụ phát triển kinh tế biển, phát triển khoa học – công nghệ biển, nguồn nhân lực cho kinh tế biển, kết nối tuyến du lịch đất liền, v.v.).

Ba phương diện này hình thành các khâu liên tục của một chuỗi phát triển cho bất cứ ngành kinh tế biển cụ thể nào. Thiếu một khâu bất kỳ nào, các ngành kinh tế biển cũng đều sẽ bị mất cân đối, khó vươn lên thành ngành hiện đại, hoạt động hiệu quả và có năng lực cạnh tranh quốc tế.

Thứ hai, với nguồn lực có hạn, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, chúng ta buộc phải tập trung nguồn lực cho một số mục tiêu hạn chế nhằm tạo sự đột phá mạnh và sức lan tỏa rộng. Bắt buộc vì nó đáp ứng những yêu cầu mang tính sống còn trong cuộc cạnh tranh quốc tế cũng như những tranh chấp lãnh hải, đặc biệt là ở vùng biển Đông, đang trở nên ngày càng gay gắt hiện nay.

Thực chất của yêu cầu này là căn cứ vào điều kiện cụ thể và lợi thế hiện có – hiện nay, đối với nước ta, chủ yếu là lợi thế “tĩnh”, bao gồm các lợi thế về tài nguyên biển và lợi thế địa - kinh tế, lợi thế địa - chiến lược - để lựa chọn điểm đột phá cụ thể cho từng lĩnh vực, ngành kinh tế biển. Việc thực hiện nó nhằm khắc phục tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư phát triển kinh tế biển, gây lãng phí và kém hiệu quả.

Bốn nhóm việc lớn

1. Sự hiện diện để khẳng định chủ quyền:

Thực lực hiện diện của Việt Nam trên các vùng biển và đại dương đã được xác lập và khẳng định, song chưa đủ mạnh.

Không dừng lại ở “chủ quyền lãnh hải” tại biển Đông, trong tầm nhìn hiện đại, Việt Nam cần đặc biệt chú ý đến việc khẳng định sự hiện diện đại dương (trên các vùng biển quốc tế) – là cách chứng tỏ năng lực khẳng định chủ quyền thực tế, năng lực chinh phục, vươn xa thực sự của Việt Nam; cũng là cách để thoát khỏi lối tư duy và phương thức sinh tồn “quay lưng ra biển”, “đánh bắt gần bờ”, thiếu ý chí và văn hóa chinh phục.

Muốn vậy, cần tập trung ưu tiên phát triển:

i) Lực lượng hàng hải viễn dương, đặt mục tiêu và lộ trình vươn lên thành một cường quốc hàng hải một cách khẩn trương, hiện thực khả thi;

ii) Xác lập và tăng cường các tuyến bay qua các hành lang biển;

iii) Củng cố và phát triển các đảo thuộc chủ quyền ở tất cả các khía cạnh khẳng định chủ quyền – không chỉ quân sự mà tập trung mạnh cho các khía cạnh chủ quyền dân sự: dân cư, kinh tế, văn hóa.

iv) Phát triển nhanh, mạnh du lịch biển đảo với tư cách là một hình thức hiện diện chủ quyền được thừa nhận quốc tế.

v) Hình thành một số dự án nghiên cứu, khai thác kinh tế biển, nhất là các dự án ở vùng biển xa, có tầm cỡ, chú trọng liên doanh với nước ngoài (các tập đoàn lớn) với những điều kiện thỏa đáng và đặt trong tầm nhìn chiến lược.

2. Đổi mới tư duy phát triển kinh tế bờ biển với các điểm nhấn sau:

- Ưu tiên xây dựng một số cứ điểm phát triển chiến lược mạnh ven biển. Những cứ điểm này là các tổ hợp phát triển lớn bao gồm: đô thị biển + cảng biển lớn + khu kinh tế mở (hay khu kinh tế tự do).

Để làm được điều này, phải thoát khỏi cách tư duy chia đều các lợi ích phát triển từ ngân sách nhà nước cho các địa phương và các nhóm lợi ích lớn (ví dụ, coi phát triển cảng như là món “quả thực” mà Trung ương phải chia đều cho các địa phương hay các nhóm lợi ích); phải nhất quán xuất phát từ lập trường, quan điểm phát triển vì lợi ích quốc gia để nhanh chóng hình thành các đầu mối, các tọa độ đột phá lớn, phục vụ cho chiến lược quốc gia tổng thể chứ không phải vì lợi ích của từng địa phương hay lợi ích nhóm.

- Tư duy lại phương thức phát triển du lịch – nghỉ dưỡng ven biển để không xảy ra khuynh hướng tận khai các tài nguyên du lịch sẵn có theo phương thức dễ dãi, ngắn hạn. Đặc biệt chú ý xây dựng các trung tâm du lịch lớn tại những tọa độ có tài nguyên du lịch đặc sắc (ví dụ Hạ Long – Cát Bà, Phú Quốc – Côn Đảo – Bà Rịa-Vũng Tàu).

Cần lưu ý rằng bờ biển và các bãi biển Việt Nam chính là mỏ vàng lớn, là một trong những nội dung chính yếu tạo nên khái niệm “rừng vàng, biển bạc”. Ta đang khai thác một cách phung phí, ngắn hạn mỏ vàng này và gây ra những hệ lụy dài hạn không nhỏ. Các bãi biển cần được khai thác với tư cách là một trọng tâm ưu tiên quốc gia, không để xảy ra những tranh chấp thể hiện sự tham lam ngắn hạn, sự ngu dốt tiểu nông kiểu như giữa một bên là khai thác cát, khai thác titan với một bên là băm nát bờ biển để làm resort chỉ phục vụ người giàu khi thế giới đã bước sang thế kỷ XXI.

3. Xây dựng sớm chiến lược đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, coi đây là một điều kiện cơ bản để xây dựng chiến lược tổng thể. Đặc biệt cần loại bỏ lối tiếp cận đối phó thiên tai thụ động, dựa vào lòng từ thiện để thể hiện sự quan tâm quốc gia, mà phải chủ động tạo nền tảng để cả cộng đồng đều sẵn sàng ứng phó và phát triển hiệu quả trong điều kiện thiên tai.

4. Phát triển nghiên cứu biển - đại dương, cả ở khía cạnh khoa học – công nghệ (phục vụ khai thác – chế biến) lẫn ở khía cạnh lối sống và văn hóa biển hiện đại, nhấn mạnh yêu cầu phát triển văn hóa, bản lĩnh chinh phục biển chứ không phải tư duy “kiếm chác”, “nương nhờ” biển.

Có một thực tế rõ ràng: Chúng ta đã và đang hình thành bốn vùng kinh tế trọng điểm và hàng chục khu kinh tế dọc theo chiều dài đất nước. Tất cả đều hướng ra biển và có tiềm năng to lớn từ kinh tế biển. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ hiện được xem là đang hình thành rõ nét nhất và cũng chứng minh được tiềm năng to lớn khi có tính ảnh hưởng và liên kết mang tính liên vùng với các hành lang kinh tế Việt Nam – Trung Quốc. Sự bùng nổ về phát triển của một vùng rộng lớn ở Tây Nam Trung Quốc trong tương lai gần mà cửa ngõ quan trong để ra biển của cả vùng là Hải Phòng và cụm cảng của khu vực này.

Nhưng những gì đang diễn ra trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ của chúng ta cho thấy các yếu tố về lợi thế, cơ cấu, thể chế điều phối và liên kết vẫn chưa rõ. Đây chính là các nút thắt trong số nhiều nút thắt làm trở ngại sự phát triển mà chúng ta vẫn nói nhiều đến lâu nay nhưng vẫn chưa được cải thiện.

PSG-TS. Trần Đình Thiên