Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự thuận lợi?

Quỳnh Chi - 14:26, 25/01/2018

TheLEADERMặc dù nhiều chỉ số quan trọng ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh đều tăng điểm, tăng hạng tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, vẫn còn thiếu tính bền vững và tồn tại nhiều rào cản.

Trong thời gian vừa qua, môi trường kinh doanh tại Việt Nam được đánh giá có những cải thiện đáng kể với sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan Chính phủ và các địa phương trong việc cắt bỏ và sửa đổi điều kiện kinh doanh không cần thiết.

Năm 2017, chỉ số về môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc, nếu tính hai năm liên tiếp thì tăng 23 bậc, mức tăng mạnh nhất trong một thập niên qua. 

Năng lực cạnh tranh cũng cải thiện rõ rệt về cả điểm số và thứ hạng. Năm 2017, năng lực cạnh tranh quốc gia tăng 0,1 điểm và 5 bậc (từ vị trí 60/138 lên vị trí 55/137).

Xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam cũng được nâng lên đáng kể. Trong năm ngoái, ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập gồm Moondy’s, Standard and Poor’s và Fitch đã tiến hành đánh giá mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam năm 2016. Đến nay hai trong ba tổ chức (gồm Moondy’s và Fitch) đã công bố nâng xếp hạng về triển vọng của Việt Nam từ mức ổn định lên mức tích cực.

Mặc dù nhiều chỉ số quan trọng ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh đều tăng điểm, tăng hạng và được các tổ chức quốc tế ghi nhận; tuy nhiên, tại Hội thảo “Kinh tế Việt Nam 2017 và triển vọng 2018: Vững bước cải cách”, bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, những chuyển biến này vẫn còn thiếu tính bền vững.

Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã thực sự thuận lợi?
Bà Nguyễn Minh Thảo, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).

Trên thực tế còn tồn tại nhiều rào cản về môi trường kinh doanh, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Bà Thảo cho rằng, các bộ vẫn còn lúng túng trong phân biệt điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề và quản lý chuyên ngành đối với sản phẩm, hàng hóa. Do vậy, nhiều điều kiện về quản lý chuyên ngành đối với sản phẩm, hàng hóa được quy định thành điều kiện kinh doanh.

Bên cạnh đó, các quy định về điều kiện chung như giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, yêu cầu về phòng cháy chữa cháy, môi trường, an toàn lao động... mặc dù đã được quản lý bởi các cơ quan như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và môi trường nhưng các bộ khác vẫn quy định quản lý cả những điều kiện này.

Vẫn còn những điều kiện kinh doanh không cần thiết, hoặc được quy định chung chung, không rõ ràng, không cụ thể. Trong năm qua, có rất nhiều điều kiện kinh doanh được đề xuất bãi bỏ, sửa đổi, tuy nhiên có tới khoảng ½ số điều kiện thuộc diện sửa đổi.

Bà Thảo cho biết, mặc dù nhìn chung có nhiều tiến bộ nhưng hiện nay, một số chỉ số về môi trường kinh doanh của Việt Nam còn thấp hạng.

Cụ thể, do số lượng thủ tục nhiều, các doanh nghiệp phải trải qua chín bước thủ tục và mất tới 22 ngày dẫn đến việc thứ hạng khởi sự kinh doanh còn thấp và liên tục giảm trong ba năm gần đây. Chỉ số về khởi sự kinh doanh của Việt Nam trong năm 2017 ở thứ 123, giảm hai bậc so với năm trước.

Hai chỉ số liên quan tới cơ quan tư pháp gồm chỉ số về giải quyết tranh chấp hợp đồng và giải quyết phá sản doanh nghiệp được cải thiện còn chậm. Mặc dù Luật phá sản 2014 có nhiều điểm mới so với Luật phá sản 2004, tiếp cận theo thông lệ quốc tế nhưng chủ yếu tập trung vào xử lý phá sản, chưa chú trọng tới phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Hiện nay, chỉ số độc lập tư pháphiệu quả pháp lý giải quyết tranh chấp của Việt Nam đang ở thứ hạng thấp hơn hẳn so với một số nước ASEAN như Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Đáng chú ý, trong nhiều năm qua, Ngân hàng Thế giới (WB) không ghi nhận cải cách nào của Việt Nam về đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản. Trong 10 năm liền, chỉ số này liên tục giảm bậc, từ thứ hạng 40 trong năm 2010 xuống thứ hạng thứ 63 trong năm nay.

Giao dịch thương mại qua biên giới được ghi nhận cải thiện về thủ tục hải quan; tuy nhiên những cải cách về quản lý chuyên ngành còn chậm và chưa đồng đều nên mức độ cải thiện chỉ số này còn hạn chế.

Trong đó, việc quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập. Hiện nay, số lượng văn bản điều chỉnh hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành còn rất nhiều, có tới hơn 400 văn bản.

Phạm vi mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành quá rộng, danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành còn chưa được cắt giảm đồng thời những chồng chéo trong quá trình kiểm tra chuyên ngành còn chưa được cải thiện.

Thời gian thực hiện thủ tục kiểm tra chuyên ngành tuy đã giảm hơn trước nhưng vẫn còn dài, chi phí còn quá lớn, đặc biệt là phí kiểm tra hiệu suất năng lượng, phí kiểm dịch thú ý và phí kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.

Liên quan đến vấn đề này, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận định, hiện nay vẫn còn tình trạng trên nóng dưới lạnh. Các cơ quan cấp trên chỉ đạo mạnh mẽ nhưng do thiếu sự kết nối chặt chẽ cùng với những lợi ích cá nhân dẫn đến thiếu sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan địa phương.

Theo đó, đại diện CIEM cho rằng, cần có sự quan tâm, vào cuộc tích cực, chủ động hơn của các Bộ, ngành, địa phương; cần đặt mục tiêu ưu tiên về cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Tiếp tục rà soát, đề xuất cắt giảm 1/3 đến một nửa số điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ và hướng tới hoàn thành trong quý 3/2018. Giảm ít nhất 50% các mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành trong từng lĩnh vực, đặt mục tiêu hoàn thành trong quý IV/2018.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục cải thiện các chỉ số còn thấp điểm, thấp hạng và chậm cải cách, đẩy mạnh Chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trực tuyến, kết nối giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong các hoạt động quản lý nhà nước. Đồng thời thiết lập cơ chế theo dõi, đánh giá và giám sát độc lập.