Truy tố Phạm Công Danh và 45 bị can trong giai đoạn 2 đại án ngàn tỷ

Minh Khoa - Trần Xuân - 16:10, 24/11/2017

Ngày 24-11, Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) tối cao đã tống đạt cáo trạng truy tố 46 bị can trong giai đoạn 2 vụ án Phạm Công Danh "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" liên quan đến 3 ngân hàng, gồm Sacombank, TPBank, BIDV.

Trước đó, bị can Phạm Công Danh và 14 bị can khác đã bị Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh xét xử và tuyên án ở trong vụ án thứ nhất về hành vi Vi phạm quy định cho vay... và Cố ý làm trái các quy định... gây thiệt hại hơn 9.000 tỷ đồng.

Qua quá trình điều tra, cho thấy Phạm Công Danh còn có nhiều hành vi sai phạm liên quan đến một số ngân hàng khác nên vào ngày 11-3-2016, cơ quan CSĐT Bộ Công an đã quyết định tách vụ án hình sự với nội dung liên quan đến 3 ngân hàng là Sacombank, TPBank và BIDV thành giai đoạn 2 vụ án Phạm Công Danh.

Đến nay, Viện KSND tối cao đã hoàn thành và tống đạt cáo trạng truy tố giai đoạn 2 vụ án, truy tố thêm nhiều bị can khác, trong đó có nhiều bị can là nhân viên ngân hàng Sacombank, TPBank, BIDV; người đại diện pháp nhân của các công ty do Danh lập ra và dùng hồ sơ của các công ty này đi vay vốn cho Danh sử dụng mục đích riêng...

Truy tố Phạm Công Danh và 45 bị can trong giai đoạn 2 đại án ngàn tỷ
Trầm Bê và Phạm Công Danh

Theo đó, từ năm 2013 đến năm 2014, Phạm Công Danh, nguyên Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Thiên Thanh do cần tiền để sử dụng mục đích riêng nhưng không thể vay được trực tiếp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB), nơi mình đang là Chủ tịch hội đồng quản trị, nên Danh đã chỉ đạo, lãnh đạo nhân viên Ngân hàng VNCB và Tập đoàn Thiên Thanh sử dụng 29 lượt công ty do Danh thành lập hoặc mượn pháp nhân, lập 29 bộ hồ sơ khống đứng tên các công ty đó vay vốn tại 3 ngân hàng Sacombank, TPBank, BIDV. 

Đồng thời, Danh đã chỉ đạo việc lập khống hồ sơ vay gửi hơn 6.630 tỷ đồng của VNCB sang gửi thị trường 2 tại 3 ngân hàng này và dùng số tiền đó cầm cố, bảo lãnh, trả nợ thay cho các công ty vay tiền tại 3 ngân hàng đó, để Danh sử dụng.

Do các công ty này chỉ làm hồ sơ vay khống, không thực hiện kinh doanh theo phương án đã cam kết trong hợp đồng tín dụng nên không có tiền trả nợ; ngân hàng VNCB thực hiện bảo lãnh nhưng không yêu cầu cầm cố, thế chấp tài sản nên đến nay không thu hồi được tiền bảo lãnh từ các công ty đó, dẫn đến Ngân hàng VNCB bị thiệt hại hơn 6.100 tỷ đồng.

Như vậy, hành vi của Phạm Công Danh vi phạm một loạt các luật, nghị định, thông tư quy định về các hoạt động tín dụng, như: Thông tư số 01/2013/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay, đi vay, mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá trị giữa các tổ chức tín dụng quy định "Tổ chức tín dụng không được thực hiện các hoạt động gửi tiền, nhận tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán và các giao dịch gửi tiền, nhận tiền gửi có kỳ hạn tối đa 3 tháng) tại tổ chức tín dụng..."; vi phạm quy định tại khoản 18, điều 4, và khoản 1 điều 126 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010... khi Danh là Chủ tịch HĐQT VNCB - không thuộc đối tượng được vay vốn tại VNCB và cũng không thuộc đối tượng được VNCB cấp tín dụng nhưng cố tình chỉ đạo việc ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết về việc dùng tiền của VNCB gửi liên ngân hàng với Sacombank, TPBank, BIDV, dùng tiền gửi này để cầm cố, bảo lãnh cho chính các công ty của Danh vay vốn.

Ngoài ra, Danh cũng là người chỉ đạo việc cấp bảo lãnh cho các công ty của Danh vay tiền nhưng không có tài sản đảm bảo là vi phạm các quy định của Nghị định số 163 ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Thông tư số 28 của Ngân hàng Nhà nước về bảo lãnh ngân hàng.

Phạm Công Danh cũng là người tổ chức việc phát hành, ra thông báo và bán trái phiếu Tập đoàn Thiên Thanh và Công ty Trung Dung (2 công ty do Danh lập ra) khi chưa có báo cáo tài chính được kiểm toán có lãi năm 2012 và chưa có văn bản phê duyệt của cấp có thẩm quyền là trái với quy định tại Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 14-10-2011 của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Việc Phạm Công Danh dùng tiền gửi của VNCB bảo lãnh cho các Công ty vay vốn tại ngân hàng nhưng không hạch toán ghi nợ cho bên được bảo lãnh và không yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả ngay trong ngày số tiền gửi và VNCB đã phải tất toán trước hạn để trả nợ thay cho các Công ty của Danh.

Hành vi đó không phản ánh đúng nghiệp vụ tài chính phát sinh; không phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị nghiệp vụ kế toán; không thực hiện yêu cầu về lưu giữ hồ sơ... Trên đây đều là những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật kế toán, Luật các tổ chức tín dụng và Thông tư số 28 của Ngân hàng Nhà nước.

Đối với bị can Phan Thành Mai, nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng VNCB đã có các hành vi tiếp nhận chủ trương và sự chỉ đạo của Phạm Công Danh; trực tiếp chỉ đạo nhân viên ngân hàng VNCB tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp để có được tiền cho Phạm Công Danh sử dụng; trực tiếp tham gia họp bàn, thống nhất ký biên bản họp HĐQT đề ra chủ trương cấp tín dụng cho Phạm Công Danh thông qua các công ty của mình vay tiền bằng các hồ sơ trái quy định của pháp luật. Ngoài ra, bị can Mai còn trực tiếp ký vào các giấy tờ quan trọng, giúp sức tích cực cho Danh gây ra thiệt hại hơn 6.100 tỷ đồng.

Đối với bị can Trầm Bê, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT ngân hàng Sacombank, là người đã giới thiệu Danh với Phan Huy Khang, nguyên Tổng Giám đốc ngân hàng Sacombank; cùng Khang chỉ đạo các nhân viên ngân hàng Sacombank làm các thủ tục hợp pháp hóa để giải ngân cho các công ty của Danh vay 1.800 tỷ đồng bằng các hồ sơ lập khống. Khi cho vay đã tính trước khoản lãi vay của 12 tháng để yêu cầu VNCB dùng tiền gửi bảo lãnh và hết hạn cho vay đã tự thu hồi tiền vay thông qua tiền gửi, gây thiệt hại cho VNCB 1.835 tỷ đồng.

Như vậy, Phạm Công Danh đã chủ mưu cùng các đồng phạm gây thiệt hại hơn 15.000 tỷ đồng qua 2 vụ án.