
Trung tâm Sài Gòn năm 1996, bốn năm sau khi chính phủ Việt Nam lúc bấy giờ ra nghị định về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, khi nhiều doanh nghiệp vẫn đang dò dẫm giữa hai lằn ranh cũ – mới, một cuộc gặp đặc biệt đã diễn ra.
Đó là cuộc gặp của một người đàn ông ngoại quốc trẻ tuổi, dáng cao, da trắng, với chất giọng nói tiếng Việt lơ lớ cùng một người phụ nữ Việt Nam nhỏ nhắn, đang quản lý một doanh nghiệp vừa cổ phần hóa được hai năm.
Người đàn ông ấy là Dominic Scriven, nhà đầu tư đến từ Anh quốc mới thành lập Công ty quản lý quỹ Dragon Capital, đang miệt mài đi tìm và thuyết phục những doanh nghiệp Việt thật sự muốn thay đổi.
Còn người phụ nữ đối diện ông là bà Nguyễn Thị Mai Thanh, thời điểm đó là Tổng giám đốc CTCP Cơ Điện lạnh (REE) – cái tên hiếm hoi chủ động cổ phần hóa dù không nằm trong danh sách sáu doanh nghiệp thí điểm.
Cuộc gặp gỡ đặc biệt đi cùng một lời đề nghị mà chưa doanh nghiệp Việt Nam từng nghe tới: REE sẽ phát hành trái phiếu chuyển đổi quốc tế với trị giá 5 triệu USD từ quỹ đầu tư nước ngoài với lãi suất chỉ 4,5%/năm, thấp hơn nhiều so với trần lãi suất lên tới 25%/năm đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay ngân hàng giai đoạn 1995 – 1996.
Thương vụ đầy bất thường từ một người ngoại quốc trẻ tuổi, nhưng lại là đáp án hoàn toàn phù hợp cho bài toán mà bà Thanh đang tìm kiếm. Thời điểm đó, REE ấp ủ kế hoạch mở rộng mảng cơ điện lạnh, đặc biệt là sản xuất máy điều hòa, nhưng gặp khó khăn về huy động vốn.
Mặc dù vậy, lời giải 5 triệu USD từ quỹ đầu tư nước ngoài với lãi suất hấp dẫn lại dẫn tới một bài toán khác – những vướng mắc về thủ tục khi REE là trường hợp đầu tiên.
Sau chuỗi ngày gặp gỡ, thuyết phục, năm 1997, Dragon Capital cuối cùng cũng hoàn tất thương vụ với REE, trở thành thương vụ trái phiếu quốc tế, trái phiếu chuyển đổi đầu tiên của Việt Nam. Nguồn vốn ấy đã giúp khơi thông dòng chảy của REE và công ty sau đó ra mắt thương hiệu REEtech chuyên cho mảng điện lạnh.
Thương vụ đó có thể coi là dấu mốc, khởi đầu cho câu chuyện đồng hành với doanh nghiệp và thị trường chứng khoán Việt Nam của bản thân ông Dominic, người sau này đã trở thành một phần trong lịch sử của thị trường chứng khoán, được mệnh danh là “người bắc cầu đưa vốn ngoại vào Việt Nam”.

Cuộc gặp với bà Thanh là một trong rất nhiều cuộc gặp dọc đất nước mà ông Dominic đã thực hiện kể từ khi thành lập Công ty Dragon Capital vào năm 1994. Sau khoảng một năm rưỡi, Dragon Capital thành lập quỹ đầu tiên có tên VEIL, huy động được 16 triệu USD, mà khởi đầu là thương vụ với REE.
Thời điểm ấy, Việt Nam không chỉ có Dragon Capital là quỹ đầu tư nước ngoài. Các “tay chơi” khác đã nhảy vào thị trường vì tin rằng đây là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng nhất trong khu vực, đặc biệt khi Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam năm 1994 và dần bình thường hóa quan hệ.

Quy mô 16 triệu USD của Dragon Capital khi đó cũng được xem là nhỏ nếu so sánh các quỹ ngoại khác như Franklin Templeton Investments với tài sản lên tới 100 triệu USD hay 50 triệu USD của Lazard. Tuy nhiên, điểm khác biệt của Dragon Capital so với các quỹ ngoại khác lại nằm ở cách vận hành, điều mà ông Dominic sau này gọi là “giá trị độc bản”.
“Khi đó, tất cả quỹ đều chưa dám đầu tư cùng doanh nghiệp Việt Nam. Họ chủ yếu tìm kiếm các dự án liên doanh, tham gia cùng đối tác nước ngoài. Với Dragon Capital, khách hàng của chúng tôi là nhà đầu tư chứng khoán, nên bản thân quỹ chọn đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp Việt”, ông Dominic nhớ lại.
Nghĩa là thay vì đứng ở “phe” các doanh nghiệp nước ngoài để tài trợ vốn, ông Dominic lựa chọn phương án rủi ro hơn nhiều – đứng về phía các doanh nghiệp Việt. Nhà đầu tư đến từ Anh quốc muốn đánh cược vào những doanh nghiệp nội địa tiềm năng để đồng hành ngay từ những ngày đầu, hỗ trợ phát triển. Câu chuyện thoạt nghe rất bình thường ở thời điểm hiện tại, nhưng cách đây hơn 30 năm, đó lại là một nhiệm vụ đầy khó khăn.
Năm 1990, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được ban hành, đặt những viên gạch pháp lý đầu tiên về việc thành lập và hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Đến năm 1992, Quốc hội ban hành hiến pháp mới, công nhận công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, đưa hai luật trên đi vào hoạt động.
Tuy vậy, việc thiếu đi những quy định hướng dẫn khiến nhà đầu tư nước ngoài không dễ để nắm giữ cổ phần của các công ty trong nước. Như trường hợp của REE, Dragon Capital không được tham gia cổ phần nên phải đưa ra phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi.
Kể cả phương án chuyển đổi đó cũng chỉ là dạng thí điểm, đòi hỏi nỗ lực không ngừng nghỉ của người đàn ông ngoại quốc trong việc thuyết phục các cơ quan chức năng, thuyết phục chính phủ Việt Nam.
“Nhưng chúng tôi vẫn tìm kiếm thêm các đối tác tiềm năng như vậy, bằng cách đọc báo, đến tận nơi hỏi thăm, mời đi ăn. Lúc ấy, ban giám đốc của Dragon Capital có hai người nước ngoài, hai người Việt Nam, chúng tôi cố gắng gặp bằng được doanh nghiệp Việt, tìm được tiếng nói chung trong một vấn đề để hai bên có thể hợp tác”, ông Dominic kể lại.
Việc thuyết phục các doanh nghiệp Việt thay đổi cũng chẳng hề dễ dàng. Thời điểm đó, ở Việt Nam, nói đến vốn doanh nghiệp chỉ nghĩ đến một cách duy nhất là đi vay ngân hàng, không ai quen với chuyện người khác góp vốn rồi cùng chịu rủi ro. Các thành viên của quỹ Dragon Capital đã phải mất rất nhiều thời gian để giải thích cái khái niệm “lời ăn lỗ chịu”, rồi từ đó mới dẫn được câu chuyện sang cổ phần hóa, sang chuyện góp vốn. Câu “lời ăn lỗ chịu” dần trở thành câu nói cửa miệng của ông Dominic, khi ông thường phải lặp lại vô số lần với các đối tác.
Nỗ lực ấy đã mang lại các khoản đầu tư ban đầu của Dragon Capital, bao gồm khoản đầu tư vào ACB, VPBank, góp vốn vào doanh nghiệp xi măng ở Hà Nam (cũ) và cho vay chuyển đổi với doanh nghiệp đồ gỗ tại TP.HCM.
Với ông Dominic, đó là những ngày tháng nhiều vất vả và gian nan nhưng cũng là giai đoạn ông trân quý, mang lại nhiều kinh nghiệm quý giá.
“Tốn nhiều thời gian lắm nhưng nếu không đi như vậy, làm sao hiểu được bề dọc của đất nước Việt Nam, hiểu được thông lệ, lịch sử, văn hóa ở nơi mình muốn phát triển sự nghiệp… Thật may là các quỹ đầu tư nước ngoài khác đã không đi theo con đường đó”, ông cười khi nhớ lại.

Thuyết phục các đối tác trong nước mới chỉ là một nửa hành trình trong những ngày tháng đầu tiên của Dragon Capital. Nửa còn lại nằm ở khả năng huy động vốn của chính Dragon Capital – làm sao để thuyết phục các nhà đầu tư ngoại rót vốn cho một thị trường chưa có gì rõ ràng vào những năm đầu của thập kỷ 90.
“Bí quyết lúc ấy chỉ có là làm mọi cách có thể, ví dụ như gọi điện không ngừng cho rất nhiều người, xin họ thời gian nghe mình trình bày về Việt Nam. Hay là tới các trung tâm tài chính, xếp hàng, chờ xin hình với người ta rồi trình bày thôi”, ông Dominic hồi tưởng.
Thời điểm ấy, khi các công nghệ tiên tiến chưa hiện diện, hành trang theo ông chỉ có giấy tờ và những bức ảnh được ép nhựa về các công ty của Việt Nam. Những giấy tờ đó đều do ông tự viết ra thành bản cáo bạch bởi các công ty chẳng hề có một bộ hồ sơ đầy đủ. Năm 1995, khi qua Mỹ, ông thậm chí còn bị hải quan giữ lại vì mang theo quá nhiều tài liệu.
Người đứng đầu quỹ Dragon Capital còn tự “nâng cấp” bản thân thêm nghề nhiếp ảnh, khi chính ông là tác giả của những bức hình chụp doanh nghiệp mà ông đang muốn gọi vốn, từ nhà máy giày, công ty chế biến hạt điều ở Long An, công ty đồ hộp ở Hạ Long, ngân hàng… Ông cứ đi, cứ chụp rồi mang theo những bức ảnh đó để chứng minh cho các nhà đầu tư rằng các doanh nghiệp này thật sự tồn tại, không phải doanh nghiệp ma.
Không ít lần, ông cố gắng mời nhà đầu tư nước ngoài sang Việt Nam, giới thiệu về thị trường này như chính quê hương thứ hai của mình. Con số 16 triệu USD gọi vốn ban đầu không phải lớn khi so với các quỹ khác cùng thời điểm, nhưng đủ lớn để tiếp sức cho ông và đội ngũ tại Dragon Capital nối dài hành trình.

Một trong những lý do khiến ông Dominic quyết định thành lập Dragon Capital vào năm 1994 và lập quỹ đầu tiên vào năm sau đó là bởi thị trường chứng khoán Việt Nam dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào khoảng năm 1996 - 1997.
Nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa kịp ra đời thì cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và hậu quả vài năm sau đó đã buộc Dragon Capital phải tính toán lại, cũng như thổi bay một phần đáng kể số vốn của quỹ này. Một số quỹ ngoại khác đã quyết định rút khỏi Việt Nam khi tình hình tài chính toàn cầu bất ổn.
Dù chưa có thị trường chứng khoán, song cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam theo một cách dai dẳng hơn các nước xung quanh.
Để hạn chế nhập siêu và kiểm soát lạm phát, tháng 2/1997, Ngân hàng Nhà nước đã nới rộng biên độ tỷ giá từ 1% lên mức 5% và sau đó là mức 10% chỉ sau tám tháng. Thế nhưng, tình hình ngoại tệ vẫn ở mức căng thẳng, buộc các nhà điều hành phải phá giá đồng nội tệ thêm 5,3% và 9,1% chỉ trong vòng hơn một năm.
Những thay đổi đó đã khiến danh mục đầu tư của Dragon Capital mất nhiều giá trị. Trong vòng sáu năm kể từ khi thành lập đến khi Việt Nam chính thức có sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên là Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM năm 2000, nay là Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM, giá trị quỹ cứ giảm dần.
Ông Domic cùng ban giám đốc chỉ mới bắt đầu được vài năm đã phải đưa ra quyết định tiếp tục hay dừng lại. Cuối cùng, họ chọn cách đi tiếp con đường đã bắt đầu, quyết tâm thành bại với nền kinh tế mới mở cửa và nhiều tiềm năng.
Quyết định này đến từ niềm tin và một phần là tính cách lạc quan “mọi chuyện sẽ ổn” mà ông Dominic học được từ chính người Việt.
“Hà Nội những năm đầu của thập kỷ 90 với tôi rất đặc biệt. Năm 1991, Liên Xô cũ sụp đổ, những khó khăn của người dân ngay cả một người đến từ đất nước khác như tôi cũng có thể cảm nhận được. Song những trải nghiệm của bản thân cho tôi niềm tin rằng, nếu có tương lai, có cơ hội thì người Việt sẵn sàng tiến bước vì tính lạc quan trong mỗi con người. Người Việt dễ dàng vượt qua những khó khăn của quá khứ để hướng tới tương lai tươi sáng hơn dù cho chưa có kinh nghiệm, chưa biết làm như thế nào”, ông Dominic chia sẻ và thừa nhận mình bị cuốn vào sự lạc quan của cả dân tộc, và muốn đi chung với Việt Nam trên hành trình mới này.

Sự quyết tâm và có đôi chút liều lĩnh vào thời điểm đó đã được hồi đáp. Tháng 7/2000, sau khi Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức ra đời, Dragon Capital là nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên trên thị trường nhận được mã số lưu ký chứng khoán do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
Bước nhảy vọt của thị trường chứng khoán giai đoạn 2006 – 2007 khi VN-Index đạt đỉnh lịch sử cùng niềm tin vào triển vọng tươi sáng của Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế không chỉ giúp Dragon Capital hồi phục mà còn tăng trưởng mạnh mẽ. Tổng tài sản do quỹ quản lý khi đó tăng lên con số hàng tỷ USD.
Rồi những biến cố mới lại ập đến theo chu kỳ của nền kinh tế. Năm 2008, suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra, tác động mạnh mẽ tới thị trường chứng khoán và bất động sản tại Việt Nam, Dragon Capital lại một lần nữa đối diện sóng gió.
Một thập kỷ sau, cơn bão mới với kinh tế toàn cầu mang tên Covid-19 diễn ra, đẩy thị trường chứng khoán vào u ám khi nhiều doanh nghiệp trong nước giảm lợi nhuận còn khối ngoại liên tục rút vốn. Xen kẽ giữa những cuộc khủng hoảng quy mô lớn là những biến động địa chính trị đầy bất ổn, từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, xung đột giữa Nga và Ukraine hay mới nhất là chiến lược thuế quan từ Mỹ.
Nhưng người thanh niên Anh quốc đến Việt Nam những năm 90 giờ đây cũng khác. Trải qua những hành trình dài với nhiều biến cố đã tôi luyện Dominic thành một nhà quản lý quỹ bản lĩnh và chuyên nghiệp. Với ông, khủng hoảng luôn là một phần không thể thiếu, dù đó là đời sống cá nhân hay trên thị trường chứng khoán. Ở đó, hai từ “quản trị” vô cùng quan trọng, và một nhà đầu tư bản lĩnh có nhiệm vụ rất lớn là quản trị rủi ro.
Dưới sự lèo lái của Dominic, Dragon Capital vẫn trụ vững tại Việt Nam, liên tục tăng trưởng quy mô tài sản, và đến nay trở thành một trong những công ty quản lý quỹ lớn nhất Việt Nam với tổng tài sản quản lý cán mốc 6 tỷ USD.
“Thế giới giờ đây rất nhiều khó khăn, nhưng rất may mắn Việt Nam vẫn hòa bình, kinh tế vẫn tăng trưởng. Vì vậy dù có rủi ro thì ít nhất, tôi vẫn nhìn thấy tiềm năng. Bởi vậy, dù một số yếu tố khiến thị trường Việt Nam chưa xứng đáng với tiềm năng, tôi vẫn lạc quan tin tưởng thị trường sẽ sớm bứt phá”, ông Dominic tin tưởng, đồng thời khẳng định tầm nhìn của quỹ luôn kiên trì và di cùng một hướng với Việt Nam.
Cuối năm 2025, thị trường chứng khoán Việt Nam đang đứng trước kỳ vọng được nâng hạng lên thị trường mới nổi. Đây là nỗ lực của Chính phủ sau nhiều năm không ngừng cải tiến, nâng cấp thị trường để phù hợp hơn với luật chơi quốc tế.
Sự cải tiến không ngừng của thị trường cũng có một phần nỗ lực của người đứng đầu Dragon Capital. Ít ai biết rằng, ông Dominic nằm trong nhóm nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên được đọc bản đề án thành lập thị trường chứng khoán do chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch soạn thảo. Khi ấy, ông Lịch muốn ông góp ý và thực hiện thêm một bản tiếng Anh.
Khi NHNN thành lập Ban Phát triển thị trường vốn vào những năm 90, với sự tham gia của ông Nguyễn Đoan Hùng, khi ấy còn là trưởng ban nghiên cứu và ông Vũ Bằng, người sau này giữ chức Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước, ông Dominic vừa tìm kiếm các nhà đầu tư đầu tiên, vừa tham gia, góp sức vào quá trình chuẩn bị cho việc thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Ông cũng từng là người dẫn đoàn cho Ủy ban Chứng khoán cùng một số doanh nhân Việt ra nước ngoài, về nước Anh tham quan, gặp gỡ các nhà đầu tư để thuyết phục họ về tiềm năng của một thị trường chưa được khai mở.
“Suốt một thời gian, tôi bị cuốn vào hành trình của Việt Nam, Việt Nam đi đâu tôi cũng muốn đi đó. Điều kiện sống, văn hóa, sự nghiệp, bạn bè ở đây đều rất phù hợp với tôi. Việt Nam giống như đất lành chim đậu vậy”, người đàn ông gốc Anh chia sẻ.
Hoạt động đầu tư của Dragon Capital không gói gọn trên bảng giá, mà còn là câu chuyện thật, doanh nghiệp thật. Đằng sau “ba chữ cái” của mã chứng khoán là một doanh nghiệp có tồn tại, hoạt động với quy mô hàng trăm, hàng ngàn nhân sự. Hiểu được điều đó, ông Dominic luôn tìm kiếm các cơ hội để kết nối những nhà đầu tư ngoại với doanh nghiệp Việt Nam.
Trong những năm sau này, những chuyến đi của ông để kết nối Việt Nam với thế giới vẫn luôn tiếp tục. Ngay cả khi cuộc sống cá nhân của ông có những trắc trở, ông vẫn nỗ lực thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản cùng với ông Đinh Tiến Dũng – Bộ trưởng Bộ Tài chính khi đó và các lãnh đạo của ngành chứng khoán.
Theo ông, đoàn Việt Nam khi đi xúc tiến ở nước ngoài thường có một yếu tố “rất Việt Nam”, đó là ngại ngần khi nói về những thành tựu của. Vì vậy, có một người nước ngoài đi chung sẽ hữu ích hơn, giúp bổ sung thông điệp cho đoàn. Ông Dominic cũng cảm thấy ấn tượng về sự thẳng thắn, cởi mở của các quan chức Việt Nam.
“Mọi người có thể ngại nói về thành tựu, nhưng nếu các nhà đầu tư thắc mắc một vấn đề kỹ thuật, như yêu cầu ký quỹ trước khi giao dịch chẳng hạn, họ sẽ giải đáp thẳng thắn. Đụng tới chuyên môn, Việt Nam không hề phủ nhận, né tránh mà giải đáp thật sự kỹ càng”.
Những nỗ lực của từng con người đó đã góp phần xây dựng nên một thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển vượt bậc. Tính đến giữa năm 2025, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 7,7 nghìn tỷ đồng, tương đương 66,8% GDP Việt Nam. Thanh khoản thị trường đã tiệm cận mức “tỷ đô” và số lượng tài khoản chứng khoán trong nước tăng lên gần 10,3 triệu, vượt xa mục tiêu 9 triệu tài khoản đặt ra cho năm 2025. Từ hai mã chứng khoán đầu tiên khi thị trường mới mở cửa vào những năm 2000, nay thị trường ngày càng sôi động với hơn 1.500 mã giao dịch niêm yết.


Những ngày đầu tháng 7, ông Dominic tranh thủ trở về quê nhà nước Anh trong một chuyến công tác. Người đàn ông với mái đầu đã bạc vẫn miệt mài với những cuộc họp có nội dung giống như 30 năm trước: Kết nối, tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam.
“Một hành trình không bao giờ có điểm kết thúc, không bao giờ. Cách đây 30 năm có bao nhiêu việc phải làm thì bây giờ, cũng còn rất nhiều việc phải làm, chỉ là các công việc khác nhau một chút theo thời đại”, ông tâm sự.
Ông Dominic vẫn đang tiếp tục đóng góp phần sức lực của mình để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình nâng hạng thị trường, từ đó thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức từ các nước... Ước tính, việc nâng hạng có thể thu hút khoảng 6 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, tương đương hơn 1% GDP của Việt Nam – một nguồn vốn tiềm năng mà Việt Nam vẫn chưa thể tận dụng.
Bên cạnh đó, ông cho biết sẽ không ngừng cố gắng phát triển mạng lưới các nhà đầu tư có tổ chức tại Việt Nam, phục vụ cho các doanh nghiệp nội địa một cách bền vững, chuyên nghiệp, qua đó thúc đẩy niềm tin của các nhà đầu tư tổ chức. Mục tiêu của ông Dominic rất đơn giản, đó là để thị trường hoàn thành được vai trò quan trọng nhất của mình: cung cấp vốn cho doanh nghiệp.
Nửa đời mình dành cho Việt Nam, ông mừng vì bên cạnh mình vẫn còn những người bạn bè từ những doanh nghiệp khác cùng tồn tại với thị trường chứng khoán.
Ông cũng cảm thấy may mắn vì bên cạnh mình vẫn còn những người đồng nghiệp tận tụy suốt hơn 30 năm qua và bây giờ, còn những người thân là những cổ đông đầu tiên và duy trì cho tới ngày nay. Những con người ấy đã đồng lòng cùng nhau, đưa Dragon Capital đi qua nhiều mất mát và biến động của thị trường.
“Chẳng có thị trường nào không khó khăn, chẳng có hành trình nào không gian nan, chẳng có nghề nghiệp nào không vất vả”, người đàn ông, nay đã hơn 60 tuổi ngẫm nghĩ khi nhìn lại một chặng đường dài. Song dù là công việc gì, điều ông Dominic luôn không thay đổi là truyền đi thông điệp mạnh mẽ về Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài. “Sứ mệnh này sẽ không bao giờ ngừng lại”, ông nhấn mạnh.
Bài viết: Kiều Mai
Thiết kế: Diệu Thảo
Bài viết đăng trên Đặc san TheLEADER với chủ đề PHỤNG SỰ xuất bản tháng 8-2025. Đặc san dày 196 trang, gồm 4 phần: Chính sách phụng sự, Lãnh đạo phụng sự, Doanh nghiệp phụng sự và Báo chí phụng sự.
Để đặt mua Đặc san, xin liên hệ:
Tạp chí điện tử Nhà quản trị - TheLEADER
Tòa soạn thường trực: Tầng 2, tòa nhà số 5 ngõ 535 Kim Mã, phường Giảng Võ, Hà Nội
Điện thoại: (024) 6687 6808 - Hotline: 08887 08817
Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: Lầu 2, tòa nhà VNO, số 29 Huỳnh Văn Bánh, phường Phú Nhuận, TP.HCM
Điện thoại: 08867 08817