Nhân dịp đầu Xuân 2024, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã có buổi nói chuyện với TheLEADER xoay quanh những đánh giá của tổ chức này về triển vọng tăng trưởng 2024 của Việt Nam.
Nhìn lại 2023
Nhìn lại năm 2023, theo ADB, đâu là những kết quả đáng chú ý của kinh tế Việt Nam? Lĩnh vực nào là điểm sáng đặc biệt so với bối cảnh chung và so với các quốc gia cùng khu vực châu Á - Thái Bình Dương?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Những nghiên cứu mới nhất của ADB cho thấy, tăng trưởng kinh tế diễn ra không đồng đều ở các nền kinh tế lớn trên thế giới tạo ra những yếu tố bất ổn cho triển vọng tăng trưởng kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tăng trưởng kinh tế của khu vực Đông Nam Á ước tính ở mức 4,3% trong năm 2023, giảm so với dự báo trước đó là 4,6%, và dự báo 4,7% trong năm 2024.
Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị trên thế giới đang gia tăng được dự báo là sẽ gây xáo trộn chuỗi cung ứng toàn cầu và làm giảm nhu cầu bên ngoài, tác động tiêu cực đến thương mại toàn cầu.
Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh mẽ vì nền kinh tế định hướng xuất khẩu và độ mở lớn của nền kinh tế.
ADB đã có những điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của Malaysia (từ 4,5% xuống còn 4,2%), Thái Lan (từ 3,5% xuống 2,5%) và Việt Nam (từ 5,8% xuống 5,2%).
Đối với kinh tế Việt Nam, 2023 là một năm nhiều khó khăn. ADB đã điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 5,2% do bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu. Lạm phát dự kiến 3,8% trong năm ngoái. Chính phủ đã chủ động đưa ra các phản ứng chính sách để duy trì phục hồi kinh tế trong năm 2023.
Các yếu tố chính giúp nền kinh tế có khả năng phục hồi khá tốt vào năm 2023 bao gồm sự phục hồi của các dịch vụ trong nước, trong đó có du lịch, chi tiêu công, mặc dù kết quả có thể tốt hơn.
Giải ngân đầu tư công đến cuối tháng 11 đạt 75% kế hoạch chi trong năm 2023, tăng đáng kể 22 điểm % so với cùng kỳ. Việc giải ngân vốn đầu tư công tuy còn chậm nhưng đã phần nào thúc đẩy tiêu dùng trong nước tăng trưởng 9,6% trong tháng 11/2023 so với cùng kỳ năm 2022.
Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng cho thấy những kết quả tích cực khi vốn FDI giải ngân đạt 20,3 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ, là mức tăng 11 tháng cao nhất trong sáu năm qua. Tổng vốn FDI đăng ký tính đến ngày 25/11/2023 ước đạt 29 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ.
Ở chiều ngược lại, đâu là những lĩnh vực, mục tiêu mà Việt Nam chưa đạt được như kỳ vọng?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, ứng phó kịp thời trước những thách thức từ bất ổn kinh tế toàn cầu và căng thẳng địa chính trị đang gia tăng.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn dự kiến do cả các yếu tố khách quan bên ngoài và các vấn đề nội tại.
Về bên ngoài, nhu cầu toàn cầu yếu là rủi ro thách thức chủ yếu, bao gồm cả sự phục hồi chậm ở Trung Quốc. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hướng đến xuất khẩu, làm giảm triển vọng thương mại và đầu tư cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động, việc làm ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, lãi suất duy trì ở mức cao tại Mỹ và EU cùng với đồng USD mạnh hơn có thể gây thêm khó khăn cho việc phục hồi nhu cầu bên ngoài và gia tăng áp lực lên tỷ giá VND.
Các vấn đề có tính hệ thống trong nước liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công và những điểm yếu về cơ cấu của nền kinh tế là những rủi ro nội tại chủ yếu ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
Thực tế cho thấy, Chính phủ đã hết sức nỗ lực chỉ đạo giải quyết, xử lý các khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Chi tiêu đầu tư công hiệu quả vào cơ sở hạ tầng có chất lượng sẽ có tác động kích thích các hoạt động kinh tế.
Triển vọng tăng trưởng 2024
Trong năm 2024, ADB dự báo như thế nào về tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở Việt Nam? Đâu là cơ hội Việt Nam có thể nắm bắt để vươn lên mạnh mẽ hơn?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Các báo cáo gần đây của ADB đã cho thấy kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại, kéo chậm quá trình phục hồi của nhu cầu bên ngoài, qua đó ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, ADB vẫn lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam và giữ nguyên dự báo 6%, lạm phát được dự báo sẽ ở mức 4% với nhận định khu vực bên ngoài có sự phục hồi, và các động lực tăng trưởng trong nước sẽ tiếp tục đà phục hồi từ năm 2023.
Nhu cầu toàn cầu yếu là rủi ro chủ yếu từ bên ngoài, trong đó sự phục hồi chậm ở Trung Quốc cản trở hoạt động sản xuất định hướng xuất khẩu , làm giảm triển vọng thương mại và đầu tư của Việt Nam.
Trước bối cảnh này, Việt Nam cần đẩy mạnh các chính sách khuyến khích nhu cầu trong nước, thúc đẩy hơn nữa các cải cách cơ cấu, cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp và thu hút nhiều hơn nữa FDI.
Theo ông, đâu là những yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Yếu tố quan trọng cho tăng trưởng 2024 của Việt Nam sẽ là sự ổn định kinh tế vĩ mô nhờ các chính sách tài khóa thận trọng và chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, tiếp nối từ năm 2023.
Đầu tư công, tiêu dùng nội địa và phục hồi xuất khẩu là ba động lực tăng trưởng chính.
Thứ nhất, đầu tư công là biện pháp kích thích tài khóa cần được đẩy mạnh vì Việt Nam còn nhiều dư địa tài khóa. Nguồn vốn đầu tư công khá lớn, khoảng 30 tỷ USD cần được đẩy nhanh giải ngân.
Đẩy nhanh đầu tư công sẽ trực tiếp hỗ trợ các ngành công nghiệp ký hợp đồng như xây dựng và khai thác mỏ, mang lại nhiều cơ hội việc làm. Hơn nữa, đầu tư công hiệu quả vào cơ sở hạ tầng có chất lượng sẽ có tác động kích thích các hoạt động kinh tế.
Thứ hai, tiêu dùng trong nước có thể được thúc đẩy nhờ nhu cầu gia tăng từ các biện pháp tài khóa, được hỗ trợ bởi chính sách tiền tệ phù hợp để giữ lãi suất ở mức tương đối thấp.
Chính sách phối hợp có thể hỗ trợ phục hồi kinh tế một cách hiệu quả, có tính đến sự ổn định tương đối về giá và nhu cầu yếu.
Trong ngắn hạn, chính sách tiền tệ cần mang tính hỗ trợ và mở rộng chính sách tài khóa. Tăng trưởng tín dụng chậm cho thấy việc nới lỏng chính sách tiền tệ phải phối hợp chặt chẽ với thực thi chính sách tài khóa để thúc đẩy hoạt động kinh tế một cách hiệu quả.
Thứ ba, về xuất khẩu, trong khi thị trường toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong giai đoạn 2023-2024, đây là cơ hội để Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra giá trị trong mạng lưới sản xuất toàn cầu nhằm cải thiện hoạt động xuất khẩu.
Để hỗ trợ nhiều hơn nữa cho doanh nghiệp, rất cần những cải cách sâu rộng hơn nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt bỏ những rào cản, thủ tục quan liệu, nâng cao chất lượng dịch vụ công để giảm bớt các chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp.
Bên cạnh những cơ hội, đâu sẽ là những “cơn gió ngược” mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt? Trước những thách thức như vậy, theo ông, đâu sẽ là giải pháp cho Việt Nam?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Kinh tế toàn cầu trong năm 2024 được dự kiến là sẽ tăng trưởng chậm hơn so với năm 2023 do những yếu tố bất ổn từ căng thẳng địa chính trị đang ngày càng gia tăng. Việt Nam vẫn phải đối mặt với những tác động tiêu cực của môi trường bên ngoài.
Sự phục hồi chậm của thương mại toàn cầu nói chung và nhu cầu bên ngoài nói riêng sẽ tiếp tục là lực cản chủ yếu, hay nói như bạn là ‘cơn gió ngược’, tác động tiêu cực đến nền kinh tế định hướng xuất khẩu và có độ mở lớn như Việt Nam.
Vì vậy, Việt Nam cần có những chính sách khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh khai thác các hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Các doanh nghiệp trong nước cần nắm bắt cơ hội để đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Mặt khác, Việt Nam cần đẩy mạnh các chính sách khuyến khích nhu cầu trong nước.
Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ trong duy trì ổn định kinh tế vĩ mô thông qua điều hành chủ động và linh hoạt các chính sách tiền tệ và tài khóa, tạo nền tảng vững chắc để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2023.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần đảm bảo thực hiện các chính sách này một cách có hiệu quả hơn để tạo ra xung lực mạnh hơn cho nền kinh tế.
Để hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp, cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp tài khóa khác như cắt giảm 2% VAT và việc giảm VAT phải được áp dụng cho đến cuối năm 2024 chứ không phải trước ngày 30/6/2024.
Bên cạnh đó, Chính phủ có thể xem xét tăng cường các biện pháp an sinh xã hội để hỗ trợ cho thị trường lao động, bao gồm trợ cấp thất nghiệp hoặc khuyến khích đào tạo lại kỹ năng.
Về lâu dài, Chính phủ cần thúc đẩy đầu tư công nhiều hơn nữa vào cơ sở hạ tầng để cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và tiếp tục thu hút nhiều hơn nữa dòng vốn đầu tư FDI có chất lượng.
ADB đánh giá như thế nào về sự chuyển dịch của dòng vốn FDI trong năm nay?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã mở cửa chào đón dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đã nổi lên như một điểm đến hấp dẫn FDI trong khu vực. Việt Nam đã làm tốt công tác thu hút FDI trong năm 2023.
Một đặc điểm quan trọng của các doanh nghiệp FDI là họ ít phản ứng với những biến động ngắn hạn và quan tâm nhiều hơn đến những lợi ích dài hạn. Việt Nam cũng như hầu hết các nền kinh tế khác ở Đông Nam Á có sự ổn định chính trị và môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện đáng kể.
Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ở khu vực châu Á ngày càng cao, để duy trì vị trí dẫn đầu về thu hút FDI, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô và đặc biệt, đảm bảo sự minh bạch và nhất quán về chính sách.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường đầu tư công vào cơ sở hạ tầng như vận tải đa phương thức, số hóa quy trình hải quan và tăng cường cung cấp năng lượng sạch cho các doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần khuyến khích đầu tư FDI vào các lĩnh vực phù hợp với Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam như đầu tư vào nền kinh tế tuần hoàn nhằm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; giải quyết những vấn đề biến đổi khí hậu như năng lượng tái tạo, xe điện, nông nghiệp bền vững và có giá trị cao; cũng như khuyến khích các ngành công nghiệp chuyển đổi công nghệ cao như kỹ thuật số, chất bán dẫn và các dịch vụ có liên quan.
Cảm ơn ông!
Thực hiện: Kiều Mai