Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng 8,02% so với năm trước, theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong hơn một thập kỷ qua do nền kinh tế phục hồi trở lại.
Con số này gần như trùng khớp với cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại kỳ họp Quốc hội vừa qua và trong khoảng dự báo của nhiều chuyên gia và tổ chức quốc tế trước đó (xoay quanh 7 – 8,2%).
Việt Nam được đánh giá vẫn là điểm sáng tại khu vực trong năm 2022, khi tăng trưởng cao, có nền kinh tế mở, năng động và có sức chống chịu qua đại dịch Covid-19.
Hay như Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá Việt Nam sẽ là nền kinh tế dẫn đầu về tăng trưởng trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương trong năm nay và năm sau.
Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế năm nay, khu vực dịch vụ và khu vực công nghiệp – xây dựng đóng góp lớn nhất với lần lượt 56,6% và 38,2%; còn lại khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 3,4%.
Ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng trưởng nhanh nhất so với cùng kỳ năm trước là ngành lâm nghiệp với 6,13%; ngành thủy sản theo sau với 4,43%; còn ngành nông nghiệp tăng trưởng 2,88% so với cùng kỳ năm trước (tuy nhiên ngành nông nghiệp đóng góp cao nhất trong khu vực vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế).
Ở khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp có xu hướng phục hồi nhanh với mức tăng năm nay đạt 7,69% so với cùng kỳ, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,1%. Ngành xây dựng tăng 8,17%.
Khu vực dịch vụ được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ 9,99% - cao nhất từ năm 2011 đến nay. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như bán buôn, bán lẻ; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống (tăng cao nhất khu vực này với 40,6%); tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; thông tin và truyền thông.
GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm trước).
Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm nay đạt 26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm trước).
Dự báo tăng trưởng năm 2023
Bước sang năm 2023, đa số chuyên gia và tổ chức quốc tế đều dự báo kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt nhiều khó khăn, thách thức từ cả yếu tố bên trong lẫn bên ngoài.
Đơn cử như trong báo cáo cách đây 1 tuần của HSBC, ngân hàng này đã hạ mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam xuống 5,8% (mức cũ là 6%), bằng với dự báo của IMF. Con số mới nhất của ADB là 6,5%. Ngân hàng Thế giới đang có dự báo tích cực nhất cho tăng trưởng Việt Nam vào năm 2023 ở mức 6,7%.
Theo HSBC, những hiệu ứng do mở cửa trở lại nhạt dần và tác động của lạm phát cao bắt đầu ảnh hưởng; đồng thời những khó khăn trong thương mại ngày càng gia tăng. Việt Nam không tránh khỏi những tác động từ bối cảnh thương mại toàn cầu chậm lại đáng kể vào năm sau.
Theo báo cáo mới nhất của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế (NCIF) thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư, kinh tế Việt Nam năm 2023 có thể diễn ra theo hai kịch bản.
Kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế có thể chỉ ở mức 6-6,2% nếu các yếu tố rủi ro lấn át xu hướng phục hồi đã thiết lập trong năm 2022. Kịch bản 2, khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức 6,5-6,7% trong điều kiện quá trình phục hồi diễn ra thuận lợi hơn, các tác động từ bối cảnh quốc tế không quá lớn.
Trong khi đó, kinh tế năm 2023 tăng trưởng 6,5%, lạm phát 4,5%, GDP bình quân đầu người khoảng 4.400 USD là một trong những mục tiêu mà Quốc hội giao cho Chính phủ.
Sản xuất nông, lâm, thủy sản
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, trong đó sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm tăng cao, chăn nuôi phát triển ổn định, xuất khẩu nông sản đạt kết quả ấn tượng do nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, Tổng cục Thống kê đánh giá.
Nông nghiệp
Nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn trong bối cảnh thiếu lương thực ở nhiều nơi trên thế giới, chính sách thắt chặt xuất khẩu lương thực của một số nước và sự phục hồi của chuỗi cung ứng.
Điển hình như tại thị trường lúa gạo, sau khi Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo tấm và đánh thuế 20% đối với các loại gạo khác từ đầu tháng 9/2022, giá gạo trên thế giới được dự báo sẽ tăng cao do chịu áp lực nguồn cung bị hạn chế.
Thị phần gần 37% thương mại gạo toàn cầu của Ấn Độ hiện nay có thể phải chia sẻ cho Việt Nam và Thái Lan khi sức cạnh tranh của giá gạo Ấn Độ yếu hơn do chịu mức thuế cao hơn.
Trong báo cáo trước đó, VNDirect nhận định: “Việt Nam có vị thế tốt để đón đầu xu hướng tăng giá của gạo”.
Mặc dù vậy việc tận dụng tốt cơ hội này lại khá khó khăn khi sản lượng gạo năm nay giảm so với năm trước. Diện tích lúa cả năm ước đạt 7,1 triệu ha, giảm 127,7 nghìn ha so với năm trước. Năng suất lúa ước đạt 60,2 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với năm trước; sản lượng lúa đạt 42,66 triệu tấn, giảm 1,19 triệu tấn; trong đó, giảm 0,89 triệu tấn do giảm diện tích đất trồng lúa và giảm 0,3 triệu tấn do giảm năng suất.
Tổng cục Thống kê lý giải việc này là do ngành trồng trọt tiếp tục triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành, chuyển đổi diện tích đất lúa kém hiệu quả hoặc không cân đối được nguồn nước sang trồng rau, màu, cây ăn quả hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản để có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Mặc dù sản lượng lúa giảm nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ chế biến và xuất khẩu. Thực hiện chuyển từ sản xuất lúa gạo theo chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bền vững.
Mô hình trồng lúa chất lượng cao được nhân rộng ở nhiều địa phương; vùng lúa chất lượng cao được tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh hợp tác, liên kết theo chuỗi để giảm chi phí, gia tăng giá trị các khâu trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Khả năng cao đầu năm 2023, giá gạo tiếp tục ở mức cao nên hợp đồng gạo trong niên vụ mới sẽ vẫn tốt, đại diện Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết.
Bên cạnh thị trường gạo, các chuyên gia tại VNDirect cũng cho rằng, giá đường trong nước sẽ tăng trong 2023 nhờ tác động của Quyết định mới về thuế chống bán phá giá áp dụng từ tháng 8/2022.
Trong bối cảnh nhiều chuyên gia dự báo các động lực tăng trưởng sẽ không còn nhiều, nông nghiệp được kỳ vọng sẽ là một trong những điểm sáng của nền kinh tế thời gian tới.
Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng thương mại nông sản năm 2023 vẫn còn nhiều thách thức. Tại Diễn đàn Kinh tế 2023, TS Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho rằng năm tới, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chi phí logitics, vận tải biển vẫn ở mức cao. Cùng với đó, chính sách nhập khẩu của một số nước có sự thay đổi. Yêu cầu, tiêu chuẩn chất lượng các nước ngày càng tăng và khó dự đoán, điều này với mặt hàng nông sản sẽ bị tác động rất lớn; thách thức về lạm phát ở nhiều quốc gia tăng cao khiến cho người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu.
Đặc biệt, thông báo về các biện pháp an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động, thực vật (SPS) của các thị trường như Nhật Bản, EU…đều gia tăng, đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn trong vấn đề sản xuất để đáp ứng các tiêu chuẩn này.
Lâm nghiệp
Sản lượng gỗ khai thác quý IV/2022 tăng cao do diện tích rừng trồng đã đến kỳ khai thác, thị trường tiêu thụ gỗ phục hồi, nhu cầu gỗ nguyên liệu của các nhà máy chế biến tăng, giá bán gỗ tăng và giữ ở mức cao.
Sau thời gian tăng trưởng đột phá, trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm nông, lâm, thủy sản, mang về hàng chục tỷ USD mỗi năm, ngành gỗ năm nay phải đối mặt với nhiều thách thức.
Biến động của kinh tế thế giới hiện đang tác động trực tiếp đến ngành gỗ khi sản phẩm gỗ sản xuất trong nước đa phần được dùng để xuất khẩu.
Mục tiêu xuất khẩu 16,5 tỷ USD trong năm nay đã không thể hoàn thành. Theo số liệu ước tính, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ đạt mức 15,9 tỷ USD, tăng 7,1%.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và lạm phát trên toàn cầu, nhu cầu tiêu dùng bị thu hẹp, xuất khẩu gỗ cũng được dự báo sẽ đi xuống trong năm 2023.
Đại diện Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM (HAWA) cho biết lâu nay, doanh nghiệp xuất khẩu vẫn tập trung vào một số thị trường chủ lực nên mỗi khi các thị trường này có biến động, hoạt động sản xuất, kinh doanh ngay lập tức bị ảnh hưởng. Do đó, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đồng thời cần đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả quản trị… để tăng sức cạnh tranh hàng hóa.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đang có xu hướng quay về thị trường nội địa bởi nhu cầu tiêu dùng của thị trường này vẫn còn bỏ trống. Hiện người tiêu dùng nội địa ngày càng có nhu cầu lớn trong trang trí nhà cửa, văn phòng.
HAWA ước tính khoảng 30% doanh nghiệp ngành gỗ đang phục vụ thị trường trong nước. Thị trường này được cho là tiềm năng vì các dự án xây dựng khởi động lại sau dịch, sẽ phần nào bù đắp cho xuất khẩu chậm lại.
Tuy nhiên, phía doanh nghiệp gỗ lại cho rằng việc quay về thị trường nội địa là giải pháp ngắn hạn và không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện được bởi thị hiếu tiêu dùng nội địa khác thị trường xuất khẩu, dây chuyền sản xuất cho hàng xuất khẩu cũng có sự khác biệt với các đơn hàng nội địa.
Nhu cầu thị trường nội đia tuy lớn nhưng sản phẩm nhỏ lẻ, thị hiếu mỗi người khác nhau nên khi chuyển về thị trường nội địa không thể "một sớm một chiều" là làm ngay được. Giải pháp lúc này là thuyết phục khách hàng duy trì đơn hàng, dù sụt giảm nhưng vẫn thực hiện để giữ chân người lao động và nhà máy hoạt động.
Thủy sản
Mặc dù có nhiều khó khăn trong bối cảnh chi phí sản xuất tăng cao, song trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thủy sản toàn cầu giữ được ổn định, chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng ghi nhận thêm một năm ‘thắng lớn’ trên thị trường quốc tế.
Không những đạt được mục tiêu cán mốc xuất khẩu trên 10 tỷ USD, thủy sản Việt Nam còn ghi nhận tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao kỷ lục 23,1%.
Theo Vasep, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đã chớp lấy thời cơ từ những thị trường có nhu cầu lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc và những thị trường luôn ưa chuộng sản phẩm thủy sản chế biến tại Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và nhiều thị trường tiềm năng khác. Bên cạnh đó, nhu cầu thủy sản tăng nhanh trong tháng 9 và trước kỳ nghỉ lễ cuối năm từ tháng 11 đến tháng 12 tại các nước Âu - Mỹ đã góp phần đảm bảo cho tăng trưởng của xuất khẩu thủy sản trong năm 2022.
Bước sang năm 2023, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho rằng, để giữ đà tăng trưởng, chiến lược ngành thủy sản sẽ chuyển dần từ khai thác, đánh bắt sang nuôi trồng, chế biến sâu để duy trì đà tăng trưởng bền vững.
"Phát triển thủy sản bền vững là căn cốt nhất, đồng thời làm tốt bảo tồn, chế biến theo công nghệ cao, thêm giá trị gia tăng gắn với xúc tiến thị trường, đi theo chuỗi khép kín, thì chúng ta sẽ có sự phát triển bền vững, khẳng định đạt được mục tiêu chiến lược đề ra", đại diện Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết
Theo bộ, chiến lược nuôi trồng thủy sản từ nay tới năm 2030 là 7 triệu tấn/năm, năm nay đã đạt trên 4,7 triệu tấn, tăng gần 7,2% so với cùng kỳ. Ở chiều ngược lại, số lượng khai thác chỉ có 2,8 triệu tấn, tương đương giảm 2,1%.
Sản xuất công nghiệp
Báo cáo tại hội nghị tổng kết năm, đại diện Bộ Công thương cho biết sản xuất công nghiệp phục hồi tích cực ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và địa phương, chuỗi cung ứng đã được nối lại và đa dạng hóa.
Cơ cấu nội ngành công nghiệp tiếp tục chuyển biến tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì động lực của toàn ngành, tăng trưởng cao nhất trong các nhóm ngành, đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, con số ước tính cho chỉ số sản xuất công nghiệp mà Bộ Công thương đưa ra (9%) tại hội nghị mới đây đã cao hơn nhiều so với số liệu được Tổng cục Thống kê vừa công bố (7,8%).
Chỉ số toàn ngành công nghiệp tháng 12 đã giảm 1% so với tháng trước đó và chỉ tăng nhẹ 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
Ngay từ tháng 11, sản xuất công nghiệp đang đối mặt với việc sụt giảm đơn hàng ở những ngành hàng xuất khẩu lớn như (dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...), doanh nghiệp giảm doanh thu, cắt giảm giờ làm, giảm lao động; rủi ro thiếu hụt nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đang hiện hữu cần có giải pháp tháo gỡ...
Sau thời kỳ tăng kéo dài hơn một năm, Chỉ số Nhà quản trị mua hàng – PMI ngành sản xuất của Việt Nam rơi xuống dưới mức trung tính 50 điểm trong tháng 11, cho thấy các điều kiện kinh doanh suy giảm mạnh.
Đầu tháng này, ông Andrew Harker, Giám đốc kinh tế tại S&P Global Market Intelligence cho rằng đã có những dấu hiệu cầu giảm trên thế giới phản ánh vào ngành sản xuất của Việt Nam. Bức tranh đã tối hơn đáng kể trong tháng 11, khi số lượng đơn đặt hàng mới, xuất khẩu, sản lượng, việc làm và hoạt động mua hàng đều giảm. Với niềm tin kinh doanh cũng bị giảm, ngành sản xuất đang đối mặt với khó khăn.
Ông lưu ý thêm: “Một điểm đáng quan tâm khác của khảo sát PMI kỳ này là ảnh hưởng của việc giảm giá đồng Việt Nam gần đây so với đô la Mỹ. Điều này đã làm tăng chi phí đầu vào, và góp phần làm giảm số lượng đơn đặt hàng mới. Tuy nhiên, mức tăng chi phí vẫn tương đối nhẹ nên các công ty vẫn có thể giảm giá bán hàng để kích thích nhu cầu”.
Đăng ký doanh nghiệp
Hoạt động khởi sự kinh doanh năm nay ghi nhận sự sôi động trở lại sau 2 năm bùng phát dịch Covid-19. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng mạnh 30,3% so với năm 2021 và gấp 1,5 lần so với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường năm nay.
Tuy nhiên, theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, quy mô vốn đăng ký trên doanh nghiệp có xu hướng giảm, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới có xu hướng chững lại trong những tháng cuối năm.
Bên cạnh tâm lý thận trọng của doanh nghiệp trong quá trình bỏ vốn, có thể thấy khó khăn về dòng tiền đang ảnh hưởng không nhỏ tới việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh khó khăn bủa vây từ nhiều phía, doanh nghiệp cần tiền để duy trì, trợ lực, nhưng dòng vốn lại đang cạn kiệt.
Đây là một trong những vấn đề đã được Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) nêu tại báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về một số vấn đề rào cản, thách thức lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi và phát triển bền vững của doanh nghiệp và nền kinh tế các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023.
Cụ thể, “thách thức rất lớn về việc tiếp cận nguồn vốn khiến doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu mua và chuẩn bị nguyên vật liệu cho các kỳ sản xuất năm 2023 cũng như duy trì công ăn việc làm cho người lao động. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng do dòng tiền của các doanh nghiệp đã cạn kiệt sau hơn 2 năm dịch bệnh. Đặc biệt, doanh nghiệp ở một số ngành phản ánh các khó khăn chưa từng có trong hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn”.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kế về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, trong quý IV/2022, có 32,6% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý trước đó; 33,7% doanh nghiệp cho rằng ổng định và 33,7% doanh nghiệp gặp khó.
So với khảo sát vào quý III/2022, tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó đã cao hơn gần 10%.
Dự kiến quý I/2023, 31,5% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 37,3% doanh nghiệp ổn định và 31,2% doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước lạc quan nhất với 70,3% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2023 tốt hơn và giữ ổn định so với quý IV/2022; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 68,9% và 65,3%.
Về khối lượng sản xuất, trong quý I/2023, 31,4% doanh nghiệp dự báo sẽ tăng, 30,1% sẽ giảm và 38,5% ổn định. Về đơn đặt hàng, 30% doanh nghiệp dự kiến tăng so với quý trước đó; 39,4% giảm và 30,6% ổn định. Về đơn đặt hàng xuất khẩu, 24% doanh nghiệp dự kiến tăng; 33% giảm; 43% ổn định.
Hoạt động dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng năm 2022 khôi phục mạnh mẽ khi dịch Covid-19 được kiểm soát, ghi nhận mức doanh thu năm nay tăng gần 20% so với năm trước. Trong đó, dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 52% và dịch vụ du lịch lữ hành tăng 272% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng quý IV, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2022 tăng 41,2%; quý II tăng 20,1%).
Con số 5679,9 nghìn tỷ đồng cho thấy không chỉ dừng lại ở việc ‘phục hồi’ mà mảnh ghép này trong bức tranh kinh tế còn tỏa sáng hơn so với trước khi có dịch và đang được kỳ vọng trở thành động lực tăng trưởng vững chắc cho nền kinh tế trong bối cảnh xuất khẩu và FDI được dự báo giảm tốc.
Cụ thể, so với năm 2019 – thời điểm trước dịch Covid-19, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 vẫn tăng 15%.
Mặc dù vậy, theo Tổng cục thống kê, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 chỉ đạt 82,5% quy mô của chỉ tiêu này nếu ước tính trong điều kiện bình thường không xảy ra dịch Covid-19 từ năm 2020 đến nay.
Doanh thu du lịch lữ hành năm nay ghi nhận mức tăng trưởng nhanh nhất trong các hoạt động thương mại và dịch vụ, do hoạt động du lịch phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt là du lịch nội địa.
Đáng chú ý, một số địa phương ghi nhận mức tăng trưởng khủng như Cần Thơ tăng 10,3 lần; Bình Định gấp 9,3 lần; Khánh Hòa gấp 8,2 lần; Thừa Thiên - Huế gấp 8 lần; Đà Nẵng gấp 6,7 lần; Hà Nội gấp 4,1 lần; Hải Phòng gấp 3,8 lần; TP.HCM gấp 1,9 lần.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ghi nhận mức tăng trưởng thứ 2 nhờ nhu cầu vui chơi và du lịch của người dân tăng cao sau hơn 2 năm hạn chế đi du lịch và ăn uống ngoài gia đình.
Nổi bật nhất ở một số địa phương như Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 156%; Khánh Hòa tăng 151%; TP.HCM tăng 122%; Cần Thơ tăng 121%; Lâm Đồng tăng 118%; Đà Nẵng tăng 84%; Hà Nội tăng 80%; Quảng Ninh tăng 58%.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm tới gần 80% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, khi năm nay ghi nhận tăng trưởng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ghi nhận mức tăng 2 con số ở các địa phương gồm TP.HCM tăng 26,4%; Đà Nẵng tăng 14,7%; Cần Thơ tăng 14,2%; Đồng Nai tăng 13,7%; Quảng Ninh tăng 12,1%; Hà Nội tăng 12%; Hải Phòng tăng 10,4%.
Trái ngược với sự bùng nổ của du lịch nội địa trong năm nay, mục tiêu đón 5 triệu lượt khách quốc tế đã không đạt được. Việt Nam đang vấp phải tình trạng ‘đi trước, về sau’ trong phục hồi du lịch quốc tế.
Nhiều chuyên gia cho rằng mặc dù đã mạnh dạn mở cửa sớm hơn nhưng du lịch Việt Nam đã không thể nhanh chóng nắm bắt được cơ hội để có thể hồi phục so với những nước trong khu vực Đông Nam Á thực hiện chính sách mở cửa muộn hơn.
Chính sách của ta quá chậm so với các nước mà nổi bật trong đó là sự giậm chân tại chỗ về chính sách thị thực (visa) trong khi các nước đã thay đổi liên tục trong suốt hơn 2 năm qua nhằm đáp ứng được nhu cầu của du khách để từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tại thời điểm mở cửa với du khách quốc tế, Việt Nam vẫn chỉ miễn thị thực cho 24 quốc gia với thời hạn thị thực chỉ 15 ngày thay vì 30 ngày như trước đây và chính sách này gần như không có sự thay đổi trong suốt thời gian qua.
Các nước trong ASEAN, cạnh tranh trực tiếp với chúng đều có chính sách thị thực thông thoáng hơn. Đơn cử như, Thái Lan đang miễn thị thực cho 65 quốc gia với thời hạn thị thực từ 30-45-90 ngày. Thái Lan mới ban hành chính sách thu hút người giàu và ‘dân du mục kỹ thuật số’ với thời hạn thị thực 5-10 năm.
Hoạt động đầu tư
Giải ngân vốn FDI năm 2022 là điểm sáng nhất ở khu vực đầu tư trong bối cảnh ‘ì ạch’ giải ngân vốn đầu tư công và tình trạng khá ‘ảm đạm’ trong thu hút dòng vốn FDI mới (giảm 18% so với năm trước).
Nhiều chuyên gia cho rằng tình trạng ‘ảm đạm’ trong thu hút vốn FDI là tình trạng chung trên thế giới. Nguy cơ suy thoái toàn cầu được liên tục cảnh báo từ tháng 7 tới nay khiến các tập đoàn lớn trên thế giới phải ‘dè chừng’ trong các quyết định đầu tư ra nước ngoài, việc thu hút FDI thời gian tới được dự báo sẽ càng khó khăn hơn.
Tại Diễn đàn đón nhận làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng ngành điện tử do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức vào đầu tháng 10/2022, GS.TS Nguyễn Mại cho rằng thời gian tới, cơ hội lớn hơn nữa, “lớn chưa từng có” đang đặt ra cho Việt Nam để tiếp tục thu hút FDI, đặc biệt là dòng vốn bền vững, chất lượng cao.
Cơ hội này đến từ việc nền kinh tế vẫn trụ vững sau 2 năm đại dịch Covid-19, tiếp tục duy trì được lạm phát thấp và tăng trưởng cao trong bối cảnh bất ổn địa chính trị làm gia tăng lạm phát, phản ứng chính sách của nhiều quốc gia đang triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam cũng tiếp tục nhận được những đánh giá tích cực, điển hình như việc Moody’s mới đây đã nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ Ba3 lên Ba2. Tổ chức này khẳng định, năng lực cạnh tranh ngày càng nâng cao và sự tham gia sâu vào chuỗi cung ứng sẽ tạo ra sức mạnh cho nền kinh tế Việt Nam.
Những lợi thế đó giúp Việt Nam trở thành điểm đến sáng giá cho dòng vốn đầu tư nước ngoài theo xu thế đa dạng hóa chuỗi cung ứng.
TS. Nguyễn Đình Cung cảnh báo, trong bối cảnh FDI vào Việt Nam sẽ giảm, đầu tư nhà nước thời gian qua có cải thiện nhưng không có những thay đổi ‘đột phá’. Ông đề nghị chuẩn bị sẵn sàng các giải pháp để ứng phó.
Trước hết, về đầu tư công, đề nghị Thủ tướng nên lập tổ phân tích rõ những nguyên nhân. Tổ này độc lập, phân tích đánh giá, phân loại các nguyên nhân, đề xuất phương án xử lý.
Cũng tương tự như thế với đầu tư nhân, ở các địa phương có quá nhiều dự án lớn nhỏ đều bị ách tắc, đề nghị có Tổ phân loại nguyên nhân, có chỉ đạo sau đó tháo gỡ ách tắc đó cho dòng vốn đầu tư cả nhà nước và tư nhân. Một nguồn lực rất lớn nhưng chúng ta không sử dụng một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, theo ông Cung, cần một cách tiếp cận động lực tăng trưởng mới – động lực tăng trưởng theo vùng kinh tế.
Động lực tăng trưởng của miền Đông Nam bộ và khu vực sông Hồng chiếm 60% GDP và nếu chúng ta thúc đẩy 2 vùng này tháo gỡ điểm ngẽn của nó, làm nó phát triển tăng trưởng 9 - 10% thì cả nước sẽ tăng trưởng 7 - 8%. Cái này hoàn toàn nằm trong tầm tay.
Vì vậy phải có một hệ khuyến khích đầu tư mới để thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào những vùng đô thị phát triển, chứ không phải vào vùng sâu, vùng xa. Đó là cách tạo động lực tăng trưởng, đồng thời đổi mới mô hình tăng trưởng.
Hiện nay, kế hoạch đầu tư nguồn ngân sách nhà nước năm 2023 đã được Quốc hội giao với số vốn kỷ lục 726,7 nghìn tỷ đồng. Như vậy, áp lực giải ngân các dự án trong năm 2023 được đánh giá là rất lớn.
Xuất nhập khẩu hàng hóa
Về xuất khẩu, năm nay có 36 mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm gần 94% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD gồm điện thoại và linh kiện; điện tử, máy tính và linh kiện; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; dệt may; giày dép; gỗ và sản phẩm gỗ; phương tiện vận tải và phụ tùng; thủy sản.
Xét về tốc độ tăng trưởng, nhóm hàng đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhất với 44,8% so với năm 2021. Tiếp sau là xăng dầu; túi xách, ví, va li, mũ, ô dù; giày dép lần lượt tăng 41%; 36% và 35%.
Tuy nhiên trong bối cảnh tăng trưởng chậm của kinh tế thế giới, nhiều chuyên gia dự báo xuất khẩu có nguy cơ ‘giảm tốc’ trong năm 2023 khi nhu cầu các thị trường chính của Việt Nam đều gay go và suy thoái.
Về nhập khẩu, từ đầu năm đến nay có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 93% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó có 6 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD gồm điện tử, máy tính và linh kiện; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; điện thoại và linh kiện; vải; chất dẻo; sắt thép.
Xét về tốc độ tăng trưởng, mặt hàng xăng dầu đứng đầu khi kim ngạch nhập khẩu gấp 2,5% lần so với năm 2021. Theo sau là dầu thô, than đá, rau quả, thủy sản.
Báo cáo kinh tế mới nhất của HSBC cho rằng ngành xuất khẩu của Việt Nam đã đến lúc cần chuẩn bị cho một đoạn đường không mấy bằng phẳng sắp tới.
Xuất khẩu tháng 12 giảm tới 14% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là tháng thứ 2 sau tháng 11/2022 (giảm 7,4%) chứng kiến mức sụt giảm đáng kể trong vòng hai năm, với suy giảm ở tất cả lĩnh vực.
Theo các chuyên gia HSBC, Việt Nam đã thâm nhập sâu vào hệ sinh thái sản xuất toàn cầu nên khó tránh khỏi những tác động khi thương mại toàn cầu chậm lại, nói cách khác, giai đoạn "chững lại" đã tới.
Nguyên nhân chính đến từ lĩnh vực điện tử - vốn chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đơn hàng điện tử mới trên thế giới đã bắt đầu giảm mạnh từ nửa cuối năm nay. Tác động xảy ra trên diện rộng tại ba điểm đến chính của xuất khẩu Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc và châu Âu.
Lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 giảm 0,01% so với tháng trước chủ yếu do giá xăng dầu trong nước giảm theo giá nhiên liệu thế giới.
Trong mức tăng này, 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 2 nhóm giảm.
Nhóm giao thông có mức giảm nhiều nhất với 2,78% (làm CPI chung giảm 0,27 điểm phần trăm), do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giảm giá xăng dầu trong nước theo giá nhiên liệu thế giới vào ngày 01/12/2022, 12/12/2022 và ngày 21/12/2022 làm cho giá xăng giảm 7,29%; dầu diezen giảm 10,64%.
Ngược lại, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,66% chủ yếu do giá gas tăng 4,08% do từ ngày 01/12/2022, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 14.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 40 USD/tấn (từ mức 610 USD/tấn lên mức 650 USD/tấn); giá nước sinh hoạt tăng 0,82% do một số địa phương tăng giá nước; giá nhà ở thuê tăng 0,77%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,35% (làm CPI chung tăng 0,01 điểm phần trăm) do giá đá, cát, gach, xi măng tăng nhẹ; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,57% do nhu cầu sửa chữa, bảo dưỡng nhà ở tăng vào dịp cuối năm.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,45% , do nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng vào vào dịp Giáng sinh và Tết Dương lịch năm 2023 cũng như chuẩn bị nguồn hàng đón Tết Nguyên đán sắp tới.
Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,41% do trong tháng có nhiều cửa hàng, siêu thị đã kết thúc các chương trình khuyến mãi giảm giá, cùng với đó nhu cầu mua sắm quần áo mùa Giáng sinh, Tết Dương lịch nên các cửa hàng tăng giá bán.
Nhóm giáo dục tăng 0,32% (làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm), trong đó dịch vụ giáo dục tăng 0,35% do một số cơ sở giáo dục ngoài công lập điều chỉnh mức tăng học phí phù hợp với quy định. Còn các nhóm khác đều tăng không quá 0,22%.
Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giảm gồm nhóm giao thông giảm 2,23% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,04%.
CPI bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu gồm giá xăng dầu trong nước tăng 28%; giá gạo tăng 1,22%; giá các mặt hàng thực phẩm tăng 1,62%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,1%; dịch vụ giáo dục tăng 1,44%; vé máy bay tăng 27,6%...
Trong khi đó, một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm nay như giá thịt lợn giảm 10,7%; giá nhà ở thuê giảm 1,8%; giá bưu chính viễn thông giảm 0,37%.
Dự báo về năm 2023, trong báo cáo mới đây, HSBC cho rằng lạm phát Việt Nam có thể lên tới 4% khi áp lực sẽ còn tăng mạnh hơn trong vài quý tới. Trong đó, tình trạng thiếu năng lượng sẽ tạo áp lực lạm phát toàn phần tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước nhiều khả năng tiếp tục chu kỳ thắt chặt.
Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 5 được tổ chức giữa tháng này, TS Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, dự báo CPI bình quân năm 2023 sẽ ở mức 4 - 4,5% do có độ trễ vì nhập khẩu nhiều, lượng cung tiền lớn hơn theo thời vụ cuối năm 2022; và năm tới cũng là thời điểm phải chấp nhận tăng một số mặt hàng do nhà nước quản lý (lương cơ bản, giá điện, y tế, giáo dục...).
Lao động, việc làm
Trái ngược với tình trạng thiếu hụt lao động vào các tháng cuối năm như thường lệ, vào năm nay, thị trường lao động lại chịu ‘cơn gió ngược’. Trong những tháng qua nhiều doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng, bán hàng không được nên đành phải sa thải hàng loạt nhân viên và công nhân.
Số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho thấy, 472.000 công nhân đã bị ảnh hưởng, trong đó 41.500 người bị chấm dứt hợp đồng lao động.
Việc sa thải, cắt giảm giờ làm chủ yếu xảy ra ở doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến gỗ, thủy hải sản, gia công linh kiện điện tử, cơ khí. Bối cảnh khó khăn chung, việc cắt giảm lương, giờ làm không chỉ diễn ra với khối sản xuất.
Dữ liệu lớn từ Navigos Group (đơn vị sở hữu VietnamWorks và Navigos Search) chỉ ra, nhu cầu tuyển dụng của thị trường trong 3 tháng cuối năm giảm mạnh ở một loạt ngành nghề. Nhu cầu tuyển dụng lao động trong 9 tháng đầu năm thực tế đã trở lại so với mức trước khi có dịch Covid-19, nhưng 3 tháng cuối năm lại giảm trung bình 15-18%.
"Do ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu và các khó khăn vừa xảy ra với các doanh nghiệp trong nước, nhu cầu tuyển dụng giảm là điều dễ hiểu", phía Navigos nhận xét và đánh giá tình trạng này có thể kéo dài sang 2023. Hiện chỉ có ngành ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán là vẫn có nhu cầu tuyển dụng tốt, với mức tăng lần lượt là 27%, 37% và 31%.
Ngọc Anh thực hiện