
Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII (QHĐ VIII) là một bước tiến quan trọng trong chiến lược phát triển năng lượng bền vững của Việt Nam, với những mục tiêu tham vọng, cơ hội lớn, nhưng cũng đầy thách thức.
Với nhu cầu điện dự báo tăng trưởng mạnh mẽ do sự phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, quy hoạch này đặt trọng tâm vào mở rộng các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) để đáp ứng nhu cầu năng lượng sạch và bền vững. Bên cạnh những cơ hội mới mở ra, Việt Nam cũng như ngành điện đang đối diện với bài toán đầu tư khổng lồ lên tới hơn 136 tỷ USD trong ngắn hạn.
Để có cái nhìn bao quát và hiểu rõ hơn về vấn đề huy động vốn – yếu tố then chốt nhằm cụ thể hóa mục tiêu đầu tư vào ngành điện đảm bảo đáp ứng chỉ tiêu tăng trưởng hai con số của nền kinh tế trong thời gian từ nay tới 2030, TheLEADER đã có cuộc trao đổi với TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện tư vấn phát triển (CODE).

- Hiện nay, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đang đặt quốc gia và ngành điện trước những cơ hội và thách thức gì, thưa ông?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Điều chỉnh QHĐ VIII mang lại nhiều cơ hội chiến lược cho ngành năng lượng Việt Nam.
Thứ nhất là quy mô đầu tư mở rộng. Với tổng công suất điện mặt trời (ĐMT) và điện gió (ĐG) dự kiến tăng gấp 3-5 lần trong 5 năm tới, Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Theo Phụ lục của QHĐ VIII, tổng công suất ĐMT đến năm 2030 đạt 58.887MW (bao gồm 25.229MW ĐMT mái nhà), trong đó miền Bắc chiếm 30.630MW, miền Trung 16.100MW, và miền Nam 12.157MW.
Thứ hai, cơ hội đến từ phát triển các loại hình mới khi ghi nhận mở rộng của các dịch vụ phụ trợ như pin lưu trữ, nguồn linh hoạt, và thủy điện tích năng. Các loại hình này không chỉ đảm bảo vận hành ổn định các nguồn NLTT “thất thường” như ĐMT và ĐG mà còn tạo ra một thị trường mới cho các công nghệ tiên tiến.
Đặc biệt, pin lưu trữ tăng từ 300MW trong QHĐ VIII lên 10.000-16.270MW, mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp công nghệ cao tham gia vào chuỗi cung ứng và triển khai dự án.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đứng trước nhiều thách thức trong thực hiện bản quy hoạch điện VIII điều chỉnh. Rõ nhất là số lượng dự án khổng lồ - sẽ có khoảng 600-1.000 dự án ĐMT và 400-640 dự án ĐG được triển khai trong 5 năm tới với quy mô công suất trung bình 50MW mỗi dự án.
Như vậy, khối lượng công việc từ đấu thầu, phê duyệt chủ trương đầu tư, thương thảo hợp đồng mua bán điện, đến giám sát và vận hành thương mại đòi hỏi nguồn nhân lực và năng lực quản lý vượt trội.
Tiếp theo, các loại hình như pin lưu trữ, nguồn linh hoạt, và thủy điện tích năng hiện gần như chưa được triển khai ở Việt Nam đặt ra tính khả thi trong thời gian ngắn.
Nhu cầu vốn đầu tư lớn cũng là một thách thức đáng chú ý. Tổng vốn đầu tư cho ngành điện giai đoạn 2026-2030 ước tính 136,3 tỷ USD, tương đương 27,6 tỷ USD/năm, gấp đôi mức trung bình của QHĐ VIII (13,5 tỷ USD/năm).
Trong khi các tập đoàn nhà nước như EVN, PVN chỉ đủ khả năng đầu tư vào các dự án trọng điểm (điện khí, LNG, lưới điện cốt lõi), các dự án NLTT phụ thuộc lớn vào nguồn vốn tư nhân. Việc huy động nguồn vốn “khủng” này đang đòi hỏi môi trường đầu tư minh bạch và cơ chế giá điện hợp lý để có thể đảm bảo thực hiện hiệu quả, thành công.


-Vậy hiện tại huy động vốn cho ngành điện đang được phân bổ ra sao và gặp những thách thức gì, thưa ông?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Chính phủ đang định hướng các công ty năng lượng quốc doanh đầu tư chủ yếu vào điện năng lượng hóa thạch, khí hóa lỏng LNG với tổng cộng 14 dự án trọng điểm, chưa kể điện hạt nhân.
Thứ hai, Nhà nước huy động vốn FDI vào lĩnh vực khí hóa lỏng. Tức, khu vực khí hóa lỏng không có doanh nghiệp tư nhân. Còn lại, điện gió, điện mặt trời, các loại hình thủy điện mở cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển, bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài 100% và doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Hiện tại, khối lượng đầu tư cho ngành điện theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đang lớn gấp 3-5 lần so với quy hoạch điện VIII ban hành trước đó nên đòi hỏi nguồn vốn rất lớn từ bên ngoài, vì trong nước không thể kham được.
Có thể khẳng định, đầu tư cho hơn một nghìn dự án như vậy đã vượt quá xa năng lực của doanh nghiệp nội địa cũng như ngân sách nhà nước. Điều này, khiến thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở nên đặc biệt cấp bách và quan trọng.
Vậy trong bối cảnh đó, đặt ra đòi hỏi huy động vốn đối với khối doanh nghiệp tư nhân bằng cách nào.
Thứ nhất, điều kiện tiên quyết để huy động vốn đầu tư cho ngành điện là giá cả điện phải đảm bảo tính thị trường. Chính phủ cần đảm bảo nguyên tắc “tính đúng, tính đủ” chi phí sản xuất điện, tránh giữ giá điện thấp làm nản lòng nhà đầu tư. Nghị định 72 và Quyết định 07 là nền tảng để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, đảm bảo nhà đầu tư có lợi nhuận hợp lý. Việc điều chỉnh giá điện linh hoạt theo thị trường sẽ giúp huy động nguồn vốn cần thiết.
Thứ hai, các ưu đãi cần được Chính phủ nghiên cứu nghiêm túc theo đúng thông lệ quốc tế như đầu tư nước ngoài.
Hiện tại, bộ luật PPP đang kìm hãm huy động vốn đầu tư nước ngoài vào ngành điện, đặc biệt là điện LNG. Tại nhiều dự án điện khí hóa lỏng, chủ đầu tư là doanh nghiệp nước ngoài đang tắc nghẽn ở khâu thủ tục vì cho rằng cơ quan mua sản phẩm điện đầu ra là cơ quan của Chính phủ - tức doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, họ đang hợp tác với Chính phủ, chứ không phải một doanh nghiệp của Việt Nam. Khi họ đã hợp tác với Chính phủ, thì Chính phủ không thể áp dụng luật của Việt Nam, mà phải theo luật quốc tế.
Khi xảy ra tranh chấp hợp đồng thì phải xử theo luật quốc tế. Đây chính là điều mà doanh nghiệp nước ngoài lo ngại nhất và đang muốn chúng ta sửa bộ luật này.
Thứ ba, việc quy định tỷ trọng lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài là không theo cơ chế thị trường. Nói cách khác, đó là luật của Việt Nam chứ không phải luật quốc tế. Ba hạn chế đó khiến cho huy động vốn quốc tế vào các dự án năng lượng gặp nhiều khó khăn, chậm trễ.
Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đầu tư chung vào ngành điện, trong đó bao gồm cả khu vực nước ngoài và khu vực tư nhân, dẫn đến nguy cơ sản lượng điện không đạt như quy hoạch đề ra. Chỉ cần nghe thấy thông tin Việt Nam thiếu điện là nhà đầu tư nước ngoài sẽ dừng lại hết.
Trong tương lai gần, các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào các trung tâm cơ sở dữ liệu, công nghệ AI, sản xuất chip. Những đối tượng đầu tư này đòi hỏi mức an toàn năng lượng tuyệt đối và tiêu thụ năng lượng rất lớn.

-Theo ông, trái phiếu xanh – huy động tài chính xanh là một giải pháp đáng cân nhắc nhằm huy động vốn cho ngành điện?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tới nay, Việt Nam chưa có chính sách thực sự nào về tài chính xanh. Thay vào đó chỉ là những hành động mang tính tự phát của các DN. Ví dụ ngân hàng BIDV hay Tài chính điện lực (EVF) phát hành trái phiếu xanh với mục tiêu thực chất là tài trợ cho các dự án điện gió và điện mặt trời.
Tuy nhiên, đó là những đồng tiền ‘không xanh’, mà chỉ được coi là tài trợ xanh. Tài trợ xanh thì đồng tiền nào cũng được. Vấn đề quan trọng là phải có đồng tiền ‘xanh’. Đồng tiền xanh ở đây, được hiểu là phải có những chính sách ưu đãi, cơ chế tài chính xanh.
Tài chính xanh phải đảm bảo các yếu tố như những ưu đãi về lãi suất như lượng vốn cụ thể, kỳ hạn dài. Các dự án điện gió, điện mặt trời đều có thời gian đầu tư vận hành rất dài, trong khi hầu hết các chương trình, sản phẩm cho vay hiện đều có thời hạn khoảng 5 năm.
Thứ ba, là tài sản đảm bảo cũng phải được ưu đãi vì rủi ro của những dự án dạng này đều lớn. Cuối cùng, phải dành ưu đãi lãi suất khác biệt cho hoạt động này. Đơn cử, doanh nghiệp cứ đi vay ngân hàng thương mại nhưng sẽ được tài trợ một tỷ trọng phần trăm lãi suất với điều kiện cho vay tối thiểu 10-20 năm, khoản vay lớn, lãi suất ưu đãi. Mô hình tài chính xanh như vừa nêu hiện chưa có tại Việt Nam.
Chúng ta mới chỉ có trái phiếu để đầu tư vào nguồn năng lượng xanh. Muốn thay đổi điều này, Chính phủ nên có chính sách quy định cụ thể thế nào là xanh, các ngành, lĩnh vực hoạt động xanh ví dụ như biogas, tái chế tuần hoàn, trồng rừng, điện gió, điện mặt trời… và các tiêu chí xác định yếu tố xanh.

Trên cơ sở đó, cần định nghĩa rõ ràng khái niệm tài chính xanh – chứ không phải là tài trợ đơn thuần cho các dự án. Tất nhiên, nội hàm bao trùm vẫn xoay quanh trái phiếu, tín dụng, cổ phiếu. Đồng thời, Chính phủ cần xây dựng chính sách để khuyến khích ngân hàng thương mại tham gia vào các chương trình tài chính xanh này.
-Ông đánh giá ra sao về những rủi ro trong đầu tư vào các dự án điện NLTT?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Thực tế, các doanh nghiệp đầu tư vào điện gió, điện mặt trời ban đầu chưa lường hết mức độ phức tạp. Cụ thể, là tổn thất do phải cất trữ năng lượng. Thời điểm nắng to, gió to, trời tối hoặc không có gió đòi hỏi phải có hệ thống pin tích trữ - việc này gây hao hụt khoảng 15% tổng lượng điện sản xuất.
Tiếp theo, việc dồn tất cả các nhà máy điện tái tạo vào một trung tâm điều hòa để nâng điện áp lên đủ để nối lưới cũng khiến hao hụt thêm 10-15%. Bên cạnh đó còn có hao hụt trên đường dây truyền tải, con số tương ứng khoảng 9%. Như vậy, tổng lượng hao hụt lên tới khoảng 39%. Do đó, rủi ro đầu tư vào lĩnh vực này khá lớn.
Nếu không có hỗ trợ nhất định từ Chính phủ, thay vào đó để các ngân hàng thương mại tự quyết, thì khó cho việc vay vốn – vì ngân hàng là cơ quan phân tích rủi ro tốt nhất. Thực tế hiện tại các ngân hàng đều ‘sợ’ cho vay phục vụ đầu tư điện tái tạo – thay vì ồ ạt cấp tín dụng như thời gian trước.
Rủi ro tiếp theo đến từ mạng lưới phân phối điện. Giả sử chúng ta sản xuất thành công lượng điện (gấp 3-5 lần hiện tại trong vòng 5-10 năm tới), thì lấy gì để tải? Tải điện phải có đường dây. Chúng ta huy động tổng lực mới thần tốc thực hiện được đường dây 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch về Phố Nối. Từ đường dây truyền tải cốt lõi này xuống tới các nhà máy thì tiếp tục phải đầu tư rất nhiều.
Nếu không có nguồn tài trợ, đầu tư thực hiện các dự án truyền tải sẽ đối diện không khuyến khích được DN đầu tư vào hệ thống phân phối, kết nối từ đường dây truyền tải chính về tới các nhà máy, ngoài ra cũng đặc biệt lưu ý lĩnh vực sản xuất pin dự trữ cũng như điều hòa điện áp.
Bên cạnh đó, chính sách về giá mua điện cũng cần được tính toán ưu đãi. Tại Singapore, điện rác được thu mua với giá 21 cents/kW, Thái Lan là 23 cents, trong khi con số này của chúng ta chỉ khoảng 10 cents. Chính sách về giá điện ưu đãi sẽ khiến cho doanh nghiệp không cần tới những chính sách khác. DN càng tiết kiệm được chi phí sản xuất bao nhiêu thì sẽ được lợi bấy nhiêu.

-Tài chính xanh còn sơ khai, vốn ngân hàng trong nước hạn hẹp, vậy theo ông ‘cửa’ nào để chúng ta huy động nhanh chóng nguồn vốn để tiếp cận, đảm nhận thực hiện hàng loạt dự án điện NTLL trong Quy hoạch điện VIII đang vẫy chào, đương nhiên tạm gác lại những rủi ro như ông vừa đề cập?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Hiện có một quỹ quân bình các-bon của nhiều quốc gia dự kiến cho Việt Nam vay khoảng 15 tỷ USD nhưng tới nay chúng ta chưa được giải ngân vì vấn đề thủ tục hành chính. Yếu tố dẫn tới ách tắc thủ tục hành chính là chương trình hỗ trợ kỹ thuật.
Để được vay, Quỹ này yêu cầu Việt Nam phải có chương trình hỗ trợ, huấn luyện kỹ thuật nhằm bảo đảm phía tiếp nhận vốn hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của dòng tiền này và sử dụng một cách hiệu quả thì mới tài trợ rót tiền cho dự án.
Tuy nhiên, nghe nói Bộ chịu trách nhiệm về lĩnh vực này không chấp nhận quy định về hỗ trợ kỹ thuật vì vấn đề này không phục vụ gì cho cơ quan chủ quản. Đồng thời, hoạt động này sẽ ‘lẹm’ vào phần vốn tài trợ từ Quỹ. Vì thế chương trình này chưa được triển khai trong thực tế.
Ngoài ra, một số nước như Thụy Sỹ, Canada cũng hỗ trợ cho vay trực tiếp DN việt nam mà không cần qua Chính phủ nhưng lãi suất rất cao. Đơn cử một quỹ cho Tập đoàn Thành Thành Công vay phục vụ dự án điện gió ở Tây Nguyên với lãi suất theo tiền Việt Nam khoảng 9,5%. Nếu cộng thêm chi phí khác thì lãi suất lên tới 10,5%.
Dẫu vậy, những khoản vay dạng này cũng bị hạn chế về mức tín dụng. Nếu vượt quá 100 triệu USD, thì phải thông qua Ngân hàng trung ương của Việt Nam. Dưới 100 triệu USD thì chỉ cần qua ngân hàng trung ương tỉnh.
Trong bối cảnh tín dụng trong nước hạn hẹp, có thể nói cửa duy nhất cho doanh nghiệp tư nhân có thể huy động lượng vốn phục vụ các dự án ngành điện là kêu gọi đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cũng như vay lãi suất cao từ các ngân hàng, quỹ quốc tế.

Đồng thời, Chính phủ sẽ chung tay bằng các chính sách tháo gỡ khó khăn, cũng như khuyến khích các ngân hàng thương mại trong nước gia tăng cho vay ở lĩnh vực này.
Bởi, theo tính toán, các Quỹ nước ngoài chỉ cam kết cho chúng ta vay 15 tỷ USD – một con số ‘chưa thấm vào đâu’ so với đòi hỏi nguồn lực tới 136 tỷ USD phục vụ các dự án ngành điện.
-Theo ông, cần làm gì để cụ thể hóa một cách nhanh chóng các giải pháp mà chúng ta đã đề ra nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn của ngành điện, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện rất lớn trong tương lai gần?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Một trong những vấn đề cấp bách, sống còn nhất hiện nay với Việt Nam là điện. Chính phủ cần có một chương trình cụ thể phát triển năng lượng, chứ không phải chỉ đưa ra tiêu chí. Vấn đề là phải có chính sách chi tiết, tương ứng để thực hiện được các tiêu chí.
Ví dụ như huy động vốn nước ngoài bao nhiêu, huy động vốn trong nước bao nhiêu, Chính phủ đầu tư bao nhiêu, khu vực doanh nghiệp Nhà nước đầu tư tỷ trọng ra sao… Đồng thời, từng đối tượng, chủ thể tham gia vào đầu tư ngành điện cần được thiết kế chính sách tương ứng.
Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã xác định tổng nguồn vốn cho đầu tư điện tăng khoảng 3-5 lần cũng như lượng dự án tăng gấp bội so với Quy hoạch điện VIII. Vì thế, sẽ đòi hỏi một chương trình hành động khác hẳn và kế hoạch cụ thể hơn nữa để đảm bảo thực hiện thành công.
Xin cảm ơn ông!

Tác giả: Nguyễn Cảnh
Ảnh: Hoàng Anh
Thiết kế: Diệu Thảo
Xuất bản: 6/8/2025