Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 3/2021

Tùng Anh - 08:00, 01/03/2021

TheLEADERTừ tháng 3/2021, nhiều chính sách mới sẽ chính thức có hiệu lực mà nổi bật là các quy định liên quan đến giáo viên và người lao động.

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 3/2021
Có 1.838 nghề, công việc được về hưu trước tuổi

1.838 nghề, công việc được về hưu trước tuổi

Căn cứ khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019, người lao động làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm được về hưu trước tuổi nhưng không quá 5 năm.

Theo đó, danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mới được ban hành kèm theo Thông tư 11/2020/ TT-BLĐTBXH gồm 1.838 nghề, công việc. Cụ thể có các lĩnh vực như: khai thác khoáng sản, cơ khí luyện kim, xây dựng giao thông và kho tàng bến bãi, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông…

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/3/2021.

Thu nhập 2 triệu đồng/tháng là nghèo đa chiều

Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/2021 quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025, có hiệu lực từ 15/3/2021.

Tại nghị định này, ngoài tiêu chí về thu nhập, Chính phủ quy định thêm tiêu chí mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản để xác định nghèo đa chiều. Số này bao gồm sáu dịch vụ xã hội cơ bản : việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.

Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số) sẽ gồm việc làm; người phụ thuộc trong hộ gia đình; dinh dưỡng; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin.

Chuẩn hộ nghèo tại nông thôn là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1,5 triệu đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. Chuẩn nghèo khu vực thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2 triệu đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Điều chỉnh hệ số lương giáo viên

Đây là một trong những nội dung đáng chú ý được đề cập tại Thông tư 01/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT và Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 20/3/2021.

Từ ngày các thông tư trên có hiệu lực, cách xếp lương cho giáo viên các cấp theo chức danh nghề nghiệp mới.

Cụ thể, giáo viên mầm non áp dụng hệ số lương từ 2,1 - 6,38 (hiện nay đang áp dụng hệ số lương dao động từ 1,86 - 4,98). Giáo viên tiểu học áp dụng hệ số lương dao động từ 2,34 - 6,78 (hiện nay hệ số lương của đối tượng này đang dao động từ 1,86 - 4,98). Giáo viên THCS áp dụng hệ số lương dao động từ 2,34 - 6,78 (hiện nay đang hưởng lương theo hệ số lương từ 2,1 - 6,38).

Giáo viên không cần có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học

Theo Thông tư 01/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT, Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT và Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 20/3/2021, tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ đối với giáo viên chỉ yêu cầu có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên và có khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số trong một số nhiệm vụ cụ thể được giao.

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 3/2021
Giáo viên không cần có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học

Trước đây, theo các quy định cũ, giáo viên phải có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản. Giáo viên cũng phải có trình độ ngoại ngữ bậc 1 hoặc bậc 2, 3 (tùy hạng giáo viên, cấp dạy) hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc.

Như vậy, từ ngày bốn thông tư này có hiệu lực, người thi tuyển viên chức để được bổ nhiệm vào các hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên hoặc nâng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên sẽ không bắt buộc có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học.

Các thông tư này áp dụng với giáo viên tại các trường công lập.

8 trường hợp khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đúng tuyến

Nội dung này được nhắc đến tại Thông tư 30/2020/TT-BYT quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Nghị định 146/2018/NĐ-CP. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/3/2021

Theo điều 6 thông tư này, các trường hợp khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đúng tuyến gồm:

Đến khám, chữa bệnh đúng cơ sở khám, chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ bảo hiểm y tế;

Đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu tại cơ sở khám, chữa bệnh tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám, chữa bệnh ở các cơ sở cùng tuyến khác trong cùng địa bàn tỉnh;

Người tham gia bảo hiểm y tế trong tình trạng cấp cứu được cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám, chữa bệnh nào trên phạm vi toàn quốc;

Người tham gia bảo hiểm y tế được chuyển tuyến;

Người tham gia bảo hiểm y tế có giấy tờ chứng minh đang ở tại địa phương khác trong thời gian đi công tác, tạm trú… khám, chữa bệnh ban đầu tại cơ sở khám, chữa bệnh cùng tuyến hoặc tương đương với cơ sở đăng ký ban đầu ghi trên thẻ bảo hiểm y tế;

Người có giấy hẹn khám lại trong trường hợp đã được chuyển tuyến.

Người đã hiến bộ phận cơ thể của mình phải điều trị ngay sau khi hiến bộ phận cơ thể.Trẻ sơ sinh phải điều trị ngay sau khi sinh ra.

Kéo dài thời hạn bảo hiểm xe máy bắt buộc tối đa 3 năm

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý tại Nghị định 03/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/3/2021.

Theo nghị định này, thời hạn ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm tối thiểu 1 năm, tối đa 3 năm đối với xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự.

Thời hạn bảo hiểm tối thiểu là 1 năm và thời hạn tối đa tương ứng với thời hạn kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường định kỳ có thời hạn trên 01 năm: Với các xe cơ giới còn lại.

Bên cạnh đó, bổ sung 1 trường hợp thời hạn bảo hiểm dưới 1 năm là xe cơ giới thuộc đối tượng đăng ký tạm thời theo quy định của Bộ Công an. Ngoài ra, hai trường hợp còn lại vẫn giữ theo khoản 1 Điều 10 Nghị định 103/2008/NĐ-CP.

Phạt nặng đến 10 triệu đồng khi cho người khác "mượn" văn bằng, chứng chỉ

Theo khoản 1 Điều 23 Nghị định 04/2021/NĐ-CP, kể từ ngày 10/3, phạt 5 - 10 triệu đồng với một trong các hành vi: sử dụng văn bằng, chứng chỉ của người khác, cho người khác sử dụng văn bằng, chứng chỉ của mình, sử dụng văn bằng, chứng chỉ bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung.

Trong khi đó, quy định cũ tại Nghị định 138/2013/NĐ-CP, phạt tối đa 8 triệu đồng với hành vi sử dụng văn bằng, chứng chỉ của người khác và sử dụng văn bằng, chứng chỉ bị tẩy xóa, sửa chữa.