Theo quy định hiện tại, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và các khoản quỹ bắt buộc khác với mức 17% mức lương tháng của người lao động. Tỷ lệ đóng này cộng tính thêm phần đóng của người lao động là 25%, cộng thêm các khoản bảo hiểm y tế và các khoản khác đã lên đến 32%.
Đây là mức đóng BHXH cao nếu so với một số quốc gia trong khu vực như Malaysia cao nhất là 13%, Indonesia từ khoảng 10 - 12%, Philippines là 8% và Thái Lan là 5%...
Mức lương tối thiểu tại Việt Nam cũng có xu hướng tăng mạnh trong nhiều năm trở lại đây. Lương tối thiểu của Bangladesh là 74,8USD/người/tháng, trong khi của Việt Nam là 198,5USD/người/tháng.
Kinh phí công đoàn 2% quỹ tiền lương cũng là gánh nặng riêng có của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Mức chi phí bắt buộc lao động cao như vậy làm giảm tính cạnh tranh của nền kinh tế, khiến Việt Nam khó thu hút vốn đầu tư để tạo việc làm cho hàng triệu người đến tuổi lao động mỗi năm.
Thứ hai, theo ông Tuấn, chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam rất cao. Từ cuối năm 2022 cho đến đầu năm 2023, lãi suất tăng mạnh, dù hiện nay đã có chiều hướng giảm.
Tuy nhiên, đó là lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn và lãi suất trung bình của đồng tiền Việt Nam luôn cao hơn vài phần trăm so với lãi suất của các đồng tiền khác trong khu vực. Điều này xuất phát từ rủi ro kinh doanh tại Việt Nam vẫn cao, an ninh tài chính tiền tệ mặc dù được cải thiện nhưng vẫn kém so với các nước xung quanh, xếp hạng tín nhiệm quốc gia vẫn còn thấp.
Ví dụ, theo Moody, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam đã tăng ba bậc từ mức B2 năm 2012 lên mức Ba2 năm 2022, đây là kết quả tốt giúp hạ lãi suất dài hạn của tiền đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực như thì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam vẫn kém nhiều bậc (Thái Lan - Baa1, Indonesia - Baa2, Philippines - Baa2, Malaysia - A3).
Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc lợi nhuận cao hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Chi phí vốn cao như vậy làm cho các ngành cần nhiều vốn như sản xuất công nghiệp khó có thể đưa ra sản phẩm cạnh tranh được với nhiều nước trên thế giới.
Cản trở lớn nhất để giảm lãi suất dài hạn, nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia chủ yếu hiện nằm ở sự thiếu minh bạch về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước và khả năng khó dự đoán của chính sách.
Các doanh nghiệp nhà nước phải đồng thời làm nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ xã hội, các trách nhiệm giải trình (quan hệ cổ đông, kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm) cũng thường thấp hơn các doanh nghiệp tư nhân có cùng quy mô.
Do đó, việc nâng cao năng lực quản trị các doanh nghiệp nhà nước, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế cần được khẩn trương thực hiện. Ví dụ, yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm.