Động lực tăng trưởng kinh tế: Dầu thô thất thế, du lịch lên ngôi

Sơn Hoàng - 15:30, 03/11/2017

TheLEADERTrong bối cảnh sản xuất dầu thô sụt giảm, ngành du lịch đang nổi lên như một động lực tăng trưởng mới của kinh tế Việt Nam thời gian gần đây.

Động lực tăng trưởng kinh tế: Dầu thô thất thế, du lịch lên ngôi
Du lịch đang tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế khó phụ thuộc vào dầu thô

Theo Báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam tháng 11/2017, HSBC cho rằng, ngành du lịch đang là đầu tàu tăng trưởng, ít nhất cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đang chuyển hướng không phụ thuộc vào dầu thô. Sản lượng dầu mỏ trong năm 2017 sẽ giảm khoảng 3 triệu tấn tương đương với với mức giảm 0,25% GDP.

Tuy nhiên, ngành du lịch và những ngành dịch vụ liên quan có thể bù đắp cho sự sụt giảm của sản lượng dầu thô do tăng trưởng của ngành du lịch trong nền kinh tế.

Theo HSBC, trong nhiều năm dầu thô là một nhân tố quan trọng góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên điều này đã không còn duy trì tại Việt Nam trong thời gian gần đây.

Sản lượng khai khoáng các nhiên liệu hóa thạch đã giảm rõ rệt trong hai năm vừa qua do các mỏ dầu có năng suất thấp và thiếu hiệu quả dẫn đến đóng góp của ngành này vào GDP đã chuyển sang âm trong suốt thời gian qua.

Tình hình năm nay cũng không mấy khả quan hơn. Sản lượng dầu mỏ của Việt Nam tính đến tháng 9/2017 vừa qua ước tính khoảng 1,06 triệu tấn (khoảng 259.000 thùng một ngày). Sản lượng này đã giảm 9,9% so với cùng kỳ năm trước và 11% nếu tính từ đầu năm đến nay.

HSBC dẫn phát biểu của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ trước đó cho rằng, Việt Nam không thể sản xuất nhiều dầu thô hơn dù rằng rất muốn, “điều này có nghĩa chúng ta sẽ phải dịch chuyển những giàn khoan ra ngoài biển nơi lượng dầu thô sẽ ít hơn. Chúng ta không còn có thể phụ thuộc vào dầu thô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế".

Bên cạnh đó, HSBC cũng nhận định, ảnh hưởng của dầu thô lên tăng trưởng xuất khẩu là rất nhỏ trong hơn hai năm vừa qua. Thực tế, trong vòng năm năm qua, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nhờ xuất khẩu hàng điện tử và điện thoại di động tăng rất nhanh.

Điều này thật sự rất khác biệt so với thập kỷ trước (2000 – 2010) khi xuất khẩu dầu thô là một trong những động lực chính nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu cùng với mặt hàng dệt may và những hàng hóa khác ví dụ như nông sản.

Cũng theo báo cáo của HSBC, Việt Nam đã chuyển sang nhập khẩu ròng dầu thô lần đầu tiên trong tháng Tám khi nhu cầu trong nước tăng và sản lượng sản xuất lại giảm.

Điều đó cho thấy, có lẽ đóng góp chủ yếu nhất của ngành dầu mỏ cho nền kinh tế trong vài năm gần đây là thông qua việc chuyển khoản cổ tức của PetroVietnam và các khoản thanh toán thuế cho Chính phủ khoảng 10 - 20% tổng thu ngân sách.

Ngành du lịch lên ngôi

Trong khi đó, theo báo cáo của HSBC, ngành du lịch Việt Nam dường như đang tiếp tục phát triển khi Chính phủ gần đây áp dụng các biện pháp tự do hóa.

Năm 2016, Chính phủ giới thiệu chương trình miễn thị thực cho năm quốc gia ở châu Âu (Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh) thu hút lượng du khách từ châu Âu vào Việt Nam từ đầu năm đến nay tăng 21% so với năm trước. Chương trình này cũng đã được gia hạn đến năm 2018 thu hút lượng khách rất lớn du lịch tới Việt Nam trong tương lai.

Ngoài ra, gần 70% lượng khách du lịch đến Việt Nam là từ các quốc gia châu Á khác, đứng đầu là Trung Quốc và Hàn Quốc. Con số này đã tăng đáng kể trong vài năm gần đây.

Từ đầu năm 2017, Việt Nam đã áp dụng quy trình cấp visa đơn giản cho công dân Trung Quốc bao gồm thủ tục xin thị thực trực tuyến cho du khách Trung Quốc du lịch ngắn ngày và ba ngày miễn thị thực cho du khách Trung Quốc nhập cảnh từ cửa khẩu Quảng Ninh.

Kết quả là Việt Nam đã chào đón lượng du khách kỷ lục hơn 10 triệu người trong năm 2016 và con số này sẽ dễ dàng được vượt qua trong năm 2017.

Ngược lại với ngành khai khoáng, ngành công nghiệp không khói cũng đã tạo ra một bước ngoặc đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam trong năm nay.

Dẫn báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam, doanh thu ngành du lịch đạt được gần 16,5 tỷ USD trong chín tháng đầu năm nay, tăng 26,5% so với năm 2016. Các ngành dịch vụ của Việt Nam cũng đã đã hưởng lợi với tăng trưởng đạt mức nhanh nhất kể từ năm 2013. Đặc biệt ngành du lịch đã hỗ trợ cho các ngành vận tải và nhà ở khi ngành vận tải có mức tăng trưởng nhanh nhất trong bốn năm qua.

Tăng trưởng ngành dịch vụ cũng đã hỗ trợ tài khoản vãng lai của Việt Nam vốn đã có thâm hụt tăng lên trong thương mại dịch vụ nhiều năm. Điều này rất quan trọng khi áp lực tài khoản vãng lai ngày càng giảm do nhập khẩu hàng hóa ngày càng nhiều cho các mặt hàng dầu thô, thiết bị điện tử và máy móc.

Bên cạnh đó, có lẽ quan trọng hơn nữa là ngành du lịch Việt Nam chủ yếu được thúc đẩy nhờ vào hoạt đồng đầu tư. Hàn Quốc là quốc gia có lượng vốn đầu tư FDI lớn nhất đổ vào Việt Nam, chủ yếu là ở ngành sản xuất, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc lại quan tâm đến lĩnh vực bất động sản sau khi Việt Nam đã nới lỏng quyền sở hữu nhà cho người nước ngoài hồi năm 2015.

Mặt khác, HSBC cũng dự báo lượng khách du lịch của Trung Quốc đến Việt Nam tiếp tục tăng và tới năm 2018 sẽ vượt qua con số 9 triệu du khách. Điều này có nghĩa là ngành du lịch không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian gần đây mà còn góp phần hỗ trợ quan trọng cho sản lượng tương lai.

HSBC đồng ý với quan điểm của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ là Việt Nam sẽ dễ dàng và bền vững hơn khi đón tiếp hơn 1 triệu du khách thay vì cố gắng tìm 1 triệu tấn dầu thô. Đồng thời, học tập nước láng giềng Thái Lan đã đón trung bình khoảng 25 triệu du khách mỗi năm kể từ năm 2010.

HSBC cho rằng đây chính là một chính sách bền vững cho Chính phủ Việt Nam khi sản lượng năng lượng hóa thạch của đất nước đang ngày càng co hẹp và ngành công nghiệp dịch vụ đang ngày càng phát triển.

Việt Nam có thể vẫn tiếp tục lạc quan về ngành công nghiệp du lịch của Việt Nam và kỳ vọng số lượng du khách sẽ vượt qua 10 triệu người trong thời gian tới vì Việt Nam đã làm được điều này trong năm 2016 và đang có khuynh hướng lặp lại trong năm 2017 nếu như chương trình miễn thị thực được ban hành rộng rãi hơn, cơ sở hạ tầng được tiếp tục cải thiện và môi trường kinh tế và chính trị ở các nước khác vẫn thuận lợi.