Sửa đổi Thông tư 16 tác động ra sao đến trái phiếu doanh nghiệp?

Trần Anh - 13:59, 28/03/2023

TheLEADERMột trong những sửa đổi quan trọng lần này là ngân hàng được phép mua lại trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên UpCOM mà trước đó đã bán ra, đến trước ngày 31/12/2023.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến cho dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều và ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 Điều 4 của Thông tư số 16 quy định về việc tổ chức tín dụng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.

Đánh giá về dự thảo sửa đổi thông tư này, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinRatings nhấn mạnh, có rất nhiều điểm tích cực cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Thứ nhất, dự thảo đã cho phép tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp có mục đích bổ sung vốn lưu động khi quản lý được nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và thu thập đầy đủ tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn lưu động.

Điểm này nếu được áp dụng sẽ góp phần thuận lợi cho tổ chức tín dụng đầu tư trái phiếu của các doanh nghiệp nhằm bổ sung vốn lưu động, thay vì phải gắn với phương án phát hành cụ thể, thường chỉ được xác định được cho các chương trình, dự án đầu tư tài sản cố định. Điều này cũng phát huy được bản chất tín dụng của trái phiếu khi được mua và giám sát bởi tổ chức tín dụng.

Thứ hai, ngân hàng được phép mua lại trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên UpCOM mà tổ chức tín dụng trước đó đã bán ra đến trước ngày 31/12/2023. 

Đây có lẽ là vấn đề có ý nghĩa nhất trong bối cảnh áp lực mua lại trái phiếu thời gian vừa qua khi nhà đầu tư yêu cầu tất toán trước hạn. Điều này nhằm tháo gỡ áp lực mà một số tổ chức tín dụng đang gặp phải do trước đó đã phân phối cho nhà đầu tư trong khi tổ chức phát hành gặp khó khăn về dòng tiền và không thể mua lại.

Hơn nữa, việc này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát chất lượng tín dụng bởi ngân hàng đối với tổ chức phát hành thường cũng là khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng. Đồng thời, góp phần giảm phần trái phiếu “trôi nổi” trên thị trường mà đang được sở hữu bởi nhà đầu tư cá nhân.

Thứ ba, tổ chức tín dụng phải sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt để thanh toán số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp cho doanh nghiệp hoặc bên bán trái phiếu.

Sửa đổi Thông tư 16 tác động ra sao đến trái phiếu doanh nghiệp?

Song song với đó, một số quy định khác có xu hướng chặt chẽ hơn về điều kiện mua trái phiếu của tổ chức tín dụng.

Cụ thể, dự thảo bổ sung quy định tổ chức tín dụng chỉ có thể mua trái phiếu doanh nghiệp khi hệ số Nợ/ Vốn chủ sở hữu (bao gồm cả khối lượng trái phiếu dự kiến phát hành) không vượt quá 5 lần dựa trên báo cáo tài chính gần nhất đã được kiểm toán.

Tức là các doanh nghiệp có mức đòn bảy cao hơn mức 5x này sẽ không thuộc đối tượng được tổ chức tín dụng mua trái phiếu. Điều này nhằm tránh việc nhiều công ty dự án có đòn bảy rất cao, lên đến chục và vài chục lần mặc dù đáp ứng các tiêu chí phát hành trái phiếu, sẽ không được tổ chức tín dụng trái phiếu.

Các quy định khác vẫn được giữ theo quy định hiện hành đối với từng tổ chức tín dụng theo nguyên tắc: phải có tỷ lệ nợ xấu (NPL) < 3%, kiểm soát được mục đích sử dụng vốn, có phương án khả thi trong việc đảm bảo thanh toán gốc và lãi đúng hạn và không có nợ xấu trong vòng 12 tháng gần nhất trên CIC.

Bên cạnh đó, còn một số điểm được thị trường kỳ vọng nhưng dự thảo chưa đề cập sửa đổi như tổ chức tín dụng vẫn không được mua trái phiếu doanh nghiệp nếu như phát hành có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp. Điều này sẽ hạn chế hoạt động tái cơ cấu lại nợ như tinh thần Nghị định 08 vừa qua áp dụng đối với trái phiếu riêng lẻ.

Quy định vẫn cấm không cho tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp với mục đích góp vốn, mua cổ phần, hoặc mua phần vốn góp tại doanh nghiệp khác. Quy định này nhằm kiểm soát rủi ro mục đích sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu để đầu tư hoặc mua lại các công ty con hoặc công ty khác – vốn việc đầu tư cổ phần được xem là rủi ro hơn. 

Tuy nhiên, về lâu về dài thì nên gỡ bỏ hoặc Ngân hàng Nhà nước nên có các quy định riêng cho hoạt động ngân hàng đầu tư (Investment Banking). Quy định này khiến hoạt động M&A và đầu tư góp vốn của doanh nghiệp sẽ cơ bản là khó thực hiện, trừ khi doanh nghiệp dùng vốn tự có hoặc huy động qua hình thức chào bán ra công chúng.

Vẫn cấm việc mua trái phiếu có mục đích tăng quy mô vốn hoạt động cũng tương tự như điểm trên. Nếu được sửa đổi hoặc được quy định riêng cho hoạt động ngân hàng đầu tư có thể giúp tổ chức tín dụng thực hiện và góp phần hỗ trợ doanh nghiệp phát triển qua việc tăng quy mô vốn. Nếu không, doanh nghiệp chỉ kỳ vọng ở việc nguồn vốn hiện có hoặc các kênh vốn khác như quỹ đầu tư, bảo hiểm...

Tuy nhiên, hiện Luật Kinh doanh Bảo hiểm có hiệu lực 1/1/2023 cũng cấm các công bảo hiểm mua trái phiếu với mục đích tái tài trợ này. Đây vẫn là nút thắt lớn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới, vì "cầu" từ hai nhóm nhà đầu tư lớn này đã bị hạn chế.

Sửa đổi Thông tư 16 tác động ra sao đến trái phiếu doanh nghiệp? 1
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinRatings

Cuối cùng, việc quan trọng nhất đối với vấn đề nợ trái phiếu hiện nay là nhu cầu tái tài trợ hoặc cơ cấu lại nợ vẫn chưa được dự thảo sửa đổi trong lần này trong bối cảnh nợ xấu trái phiếu đang tăng từng ngày. 

Theo FiinRatings, tỷ lệ nợ xấu trái phiếu doanh nghiệp tính trên tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành không gồm ngân hàng hiện ở mức 12% và riêng trái phiếu bất động sản thì tỷ lệ chậm trả là 20% tại ngày 17/3/2023 và có xu hướng tăng mạnh.

Do đó, nếu như dự thảo sửa đổi Thông tư 16 này được giữ nguyên thì cũng chưa có tác động nhiều đến việc giải quyết vấn đề trái phiếu doanh nghiệp nói riêng và trong đó có tín dụng bất động sản.

Điều này cũng sẽ tạo áp lực lên nợ xấu ngân hàng vào thời gian tới đây nếu như không được tái cơ cấu. Dĩ nhiên, biện pháp này mang tính kỹ thuật nhiều hơn bởi mấu chốt vẫn là sự cải thiện về dòng tiền từ doanh nghiệp, nhưng thật không may là triển vọng thì chưa có dấu hiệu tốt lên.

Do đó, khủng hoảng trái phiếu doanh nghiệp tác động chéo sang chất lượng tín dụng của ngân hàng là hiện hữu. Bởi khi một doanh nghiệp chậm trả trái phiếu thì sau đó sẽ có khả năng chậm trả nợ ngân hàng và có nguy cơ trở thành nợ xấu.

Đây là vấn đề nên được đánh giá cụ thể và có những chính sách tiếp theo để có thể giải quyết vấn đề trái phiếu doanh nghiệp hiện nay và giảm thiểu rủi ro sang nợ xấu tín dụng ngân hàng.

Ngân hàng là nhà đầu tư và nhà tạo lập thị trường (market maker) chính trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Do đó, nói đến phát triển trái phiếu thì không thể không xem xét cơ sở nhà đầu tư vào sản phẩm này. Để khai thông thị trường trái phiếu, bên cạnh chuẩn hoá phía cung thì việc thông phía cầu về trái phiếu trong đó có ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư... là yếu tố then chốt.