Những điểm nhấn trong Quy hoạch điện VIII

Phương Anh - 09:55, 29/10/2021

TheLEADERSự khác biệt đáng chú ý giữa Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh là tỉ lệ nhiệt điện than trong tổng công suất giảm đáng kể.

Đến năm 2045, tỉ lệ nhiệt điện than giảm còn 15 – 19%

Bộ Công thương mới đây đã chính thức trình Chính phủ Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII).

Theo đó, dự kiến tới năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt khoảng 130 – 140 nghìn MW, trong đó nhiệt điện than chiếm 28 – 31%, nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 21 – 22%.

Thuỷ điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm 18 – 19%; nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời, điện sinh khổi) chiếm 24 – 25%. Phần còn lại là nhập khẩu.

Dự báo đến năm 2045, tổng công suất đặt của nguồn điện đạt 260 – 330 nghìn MW, trong đó nhiệt điện khí chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo là nguồn năng lượng tái tạo. Tỉ lệ nhiệt điện than giảm mạnh từ 29% năm 2020 xuống còn khoảng 15 – 19% vào năm 2045.

Đây là sự khác biệt giữa Quy hoạch điện VII điều chỉnh và Quy hoạch điện VIII được nhận định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam cũng như xu thế phát triển năng lượng của thế giới.

Những điểm nhấn trong Quy hoạch điện VIII
Theo Quy hoạch điện VIII, tỉ lệ nhiệt điện tham sẽ giảm mạnh trong những năm tới. Ảnh: VGP.

Về thủy điện, đây vốn là nguồn năng lượng có điều kiện vận hành linh hoạt, phù hợp với chế độ phủ đỉnh biểu đồ phụ tải, nhất là trong cơ cấu nguồn điện của hệ thống điện có điện mặt trời và điện gió ngày càng tăng.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, tỉ lệ nguồn thủy điện đang giảm dần vì các dự án thuỷ điện lớn tại Việt Nam cơ bản đã khai thác và đưa vào vận hành. Khả năng khai thác các công trình thủy điện còn lại hầu hết là những dự án có công suất nhỏ và đang trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng, hoặc đang xây dựng.

Rà soát cho thấy hệ thống có thể bổ sung thêm khoảng 1.840MW thủy điện vừa và lớn, bao gồm cả các dự án mở rộng, như Hòa Bình mở rộng thêm 2 tổ máy tổng công suất 480MW, Ialy mở rộng thêm 2 tổ máy tổng công suất 360 MW và Trị An mở rộng thêm 2 tổ máy tổng 200MW.

Các dự án thủy điện nhỏ có khả năng phát triển thêm khoảng 2.700MW trong giai đoạn từ nay đến 2030. Do đó, đến năm 2045, tỉ lệ thủy điện dự báo chỉ còn chiếm 9% trong cơ cấu nguồn của hệ thống điện.

Cẩn trọng với cơ cấu nguồn từ khí LNG

Quy hoạch điện VIII định hướng phát triển các nguồn dùng nhiên liệu truyền thống chuyển sang khí LNG, với quy mô rất lớn, từ 0% năm 2020 lên xấp xỉ 12.500 – 17.000MW năm 2030, tương đương chiếm khoảng 10% tổng quy mô nguồn năm 2030. Tỉ lệ này sẽ gia tăng lên mức 15 – 17% vào năm 2045, tương đương mức công suất 43.000MW.

Thực tế cho thấy, nguồn cung từ khí LNG chủ yếu là nhập khẩu và có thể sẽ gặp phải những khó khăn tương tự việc phát triển nguồn nhiệt điện than trong giai đoạn vừa qua.

Do đó, định hướng phát triển các nhà máy điện sử dụng khí LNG cần tính toán trên cơ sở khả năng nhập khẩu LNG, và đồng bộ với xây dựng hạ tầng cung cấp trên phạm vi cả nước nhằm tối ưu trong đầu tư, tiết kiệm chi phí xây dựng, nhất là hệ thống kho cảng và lưu trữ.

Giá nhiên liệu LNG nhập khẩu luôn là yếu tố bất định, có nhiều biến động trong thời gian qua cũng như giai đoạn sắp tới, dẫn đến các vấn đề về giá, cơ chế giá, hình thức đầu tư. Đây là các rủi ro có thể dẫn đến việc phát triển các nguồn điện sử dụng nhiên liệu LNG không cao như định hướng, gây ảnh hưởng đến an ninh năng lượng nói chung và an ninh cung cấp điện nói riêng.

Giải bài toán về năng lượng tái tạo

Theo Quy hoạch điện VIII, tỉ trọng nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) so với tổng công suất năm 2020 là 24,4%, đến 2030 là 24,3 – 25,7% và đến năm 2045 là 26,5 – 28,4%.

Tỉ trọng nguồn NLTT đã được ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý.

Trong đó, cần xem xét đến tỉ trọng nguồn NLTT đưa vào cân bằng công suất trong cân đối nguồn - tải dựa trên số giờ huy động công suất khả dụng của nguồn NLTT trên phạm vi tỉnh, vùng, toàn quốc, và khả năng dự phòng từ các nguồn khác khi nguồn NLTT không thể vận hành.

Tuy nhiên, khi thực hiện cần phân bổ kịch bản phát triển NLTT tối ưu theo khu vực và thời gian thực hiện, trong đó, cần ưu tiên phát triển NLTT tại các khu vực lưới điện đáp ứng yêu cầu giải tỏa công suất, đặc biệt khu vực phía bắc (giai đoạn 2021 – 2030).

Cùng với đó, giảm khối lượng đầu tư nguồn NLTT giai đoạn 2021 – 2025 và chuyển sang thực hiện giai đoạn 2026 – 2030 để đảm bảo tính khả thi thực hiện.

Ngoài ra, ưu tiên thực hiện các nguồn điện có đặc tính điều chỉnh công suất linh hoạt (tốc độ nhanh, dải điều chỉnh rộng) như mở rộng các nhà máy thủy điện, hệ thống pin tích trữ (BESS), các nhà máy thủy điện tích năng.

Theo phân tích, dù Việt Nam có các nguồn điện linh hoạt bổ sung cho hệ thống điện, việc cắt giảm nguồn năng lượng gió, mặt trời với một tỉ lệ thích hợp là điều không thể tránh khỏi đối với một hệ thống điện tích hợp năng lượng tái tạo ở quy mô lớn.

Với chương trình phát triển điện lực Quy hoạch điện VIII, Việt Nam cần đầu tư cho ngành điện khoảng 100 – 116 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2021 – 2030, và khoảng 180 – 227 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2031 – 2045.

Quy hoạch điện VIII cũng đưa ra các giải pháp, cơ chế thực hiện như đề xuất sửa đổi Luật Điện lực theo hướng linh hoạt hơn đối với yêu cầu đầu tư các công trình điện, đảm bảo thu hút mọi nguồn lực xã hội trong phát triển ngành điện; đề xuất cơ chế xây dựng kế hoạch phát triển điện lực trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Đồng thời, đề xuất cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện; đề xuất cơ chế xã hội hóa đầu tư lưới điện truyền tải.

Các đề xuất này sẽ từng bước được nghiên cứu, hoàn thiện để đảm bảo thực hiện xây dựng, quản lý và vận hành các công trình điện theo đúng quy hoạch, đặc biệt trong bối cảnh đầu tư từ các nguồn vốn tư nhân, nguồn vốn nước ngoài chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư phát triển điện lực.