5 yếu tố quyết định khả năng bảo hộ sáng chế của sản phẩm

Tùng Anh - 09:11, 13/05/2022

TheLEADERĐể được bảo hộ sáng chế, sản phẩm phải thuộc đối tượng có khả năng bảo hộ sáng chế, là một sáng chế, có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.

5 yếu tố quyết định khả năng bảo hộ sáng chế của sản phẩm
Ở nhiều nước, “sáng chế” được mô tả là một giải pháp mới cho một vấn đề kỹ thuật có thể mới hoặc cũ.

Bằng sáng chế khuyến khích sự sáng tạo

Nắm được tấm bằng độc quyền sáng chế trong tay là điều mà người sở hữu sáng chế nào cũng muốn vì có thể ngăn cấm người khác sản xuất, sử dụng, chào bán, bán hoặc nhập khẩu sáng chế được bảo hộ mà không được phép của họ. Bằng độc quyền sáng chế mang lại cho chủ sở hữu độc quyền ngăn cấm người khác khai thác thương mại sáng chế trong một thời hạn nhất định để đổi lại việc họ phải bộc lộ sáng chế cho công chúng.

Triết lý của hệ thống sở hữu trí tuệ là tưởng thưởng về tài chính thu được từ việc khai thác sáng chế và bộc lộ sáng chế để công chúng biết và sử dụng nhằm khuyến khích sự sáng tạo và nâng cao trình độ công nghệ của khu vực công nghiệp quốc gia, và những lợi ích rõ rệt về thương mại.

Một sự thật hiển nhiên là không phải tất cả doanh nghiệp đều phát triển được sáng chế có khả năng bảo hộ. Cũng có sự hiểu lầm rằng bằng độc quyền sáng chế chỉ áp dụng đối với quy trình và sản phẩm hoá lý phức tạp hoặc chỉ hữu ích cho các tập đoàn lớn. Nhìn chung, bằng độc quyền sáng chế có thể được cấp cho lĩnh vực công nghệ bất kỳ, từ cái kẹp giấy đến máy vi tính. Hiện tại, có hàng ngàn bằng độc quyền sáng chế đã được cấp cho các sản phẩm đơn giản trong cuộc sống hàng ngày như bút, chai thuỷ tinh, sợi dệt hay xe đạp.

Để được cấp bằng sáng chế, chủ sở hữu phải nộp đơn đăng ký vào cơ quan sáng chế quốc gia hoặc khu vực. Trong đơn đăng ký, phải mô tả sáng chế của người nộp và so sánh với các công nghệ có trước trong lĩnh vực tương ứng. Thông thường, có thể nhận mẫu đơn đăng ký tại cơ quan sáng chế.

Độc quyền này được cấp trong một thời hạn nhất định, thường là 20 năm kể từ ngày nộp đơn với điều kiện chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phải nộp phí duy trì hiệu lực hàng năm, và chỉ có hiệu lực ở nước đăng ký bảo hộ.

Việc bảo hộ pháp lý chống lại hành vi xâm phạm độc quyền sáng chế bất kỳ không có được một cách tự động, mà dựa trên đề nghị của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế. Do vậy, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cần phải giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh doanh của doanh nghiệp khác nếu muốn thực thi độc quyền sáng chế.

5 yếu tố quyết định

Để được bảo hộ sáng chế, sản phẩm phải: thuộc đối tượng có khả năng bảo hộ sáng chế; là một sáng chế; có tính mới; có trình độ sáng tạo; có khả năng áp dụng công nghiệp.

5 yếu tố quyết định khả năng bảo hộ sáng chế của sản phẩm
Sáng chế khác với phát minh

Nhìn chung ở nhiều nước, “sáng chế” được mô tả là một giải pháp mới cho một vấn đề kỹ thuật có thể mới hoặc cũ. Việc đơn thuần tìm ra một thứ bất kỳ đã tồn tại trong tự nhiên, thường được gọi là phát minh, sẽ không phải sáng chế. Sáng chế cần có sự can thiệp của con người.

Vì vậy, một chất được chiết xuất từ thực vật trong tự nhiên có thể là một sáng chế. Mặc dù đúng là một số sáng chế là kết quả của một quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D) lâu dài hoặc một sự đầu tư lớn nhưng sáng chế không nhất thiết phải là một cái gì đó phức tạp hay công nghệ cao. Thậm chí, cái kẹp giấy hay tăm xỉa răng cũng có thể là một sáng chế nếu nó giải quyết được một vấn đề kỹ thuật hiện tại.

Về tính mới, một sáng chế là mới nếu có sự khác biệt giữa sáng chế với kiến thức hiện có hoặc giải pháp kỹ thuật đã biết.

Có sự khác nhau giữa các nước về giải pháp kỹ thuật đã biết. Ở nhiều nước châu Âu, sáng chế bất kỳ được thể hiện trong các tài liệu dạng giấy ở địa điểm bất kỳ trên thế giới hoặc được biết đến hoặc được sử dụng ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đều cấu thành giải pháp kỹ thuật đã biết và do đó, sẽ làm mất tính mới của sáng chế. Do vậy, công bố bản mô tả sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký có thể khiến sáng chế mất đi tính mới về mặt kỹ thuật và không được cấp bằng độc quyền sáng chế.

Ở một số nước khác, việc sử dụng ở nước ngoài sẽ không cấu thành giải pháp kỹ thuật đã biết vì sẽ rất khó để chứng minh điều đó. Ngoài ra, một số nước (ví dụ Hoa Kỳ) quy định ân hạn 12 tháng tính từ thời điểm tác giả sáng chế bộc lộ sáng chế, theo đó, trong thời hạn này, tác giả sáng chế có thể nộp đơn đăng ký cho sáng chế đó mà không mất tính mới.

Thứ ba, sáng chế được coi là có “trình độ sáng tạo" nếu nó là không hiển nhiên đối với người bất kỳ có trình độ trong lĩnh vực lĩnh vực kỹ thuật của nó. Có một số lượng đáng kể trường hợp mà thẩm định viên và người nộp đơn hoặc luật sư sáng chế không đạt được sự nhất trí về trình độ sáng tạo của sáng chế và quyết định cuối cùng phải được đưa ra tại toà án . Cũng có không ít quyết định của thẩm định viên cơ quan sáng chế bị toà án bác bỏ hay quyết định của toà án cấp dưới bị toà án cấp trên bác bỏ.

Theo các quyết định trước đây của toà án, một số ví dụ về những thứ bị coi là thiếu trình độ sáng tạo là: sự thay đổi kích thước đơn thuần; làm cho có thể vận chuyển được; hoán đổi các bộ phận; thay đổi nguyên liệu; sự kết hợp của các bộ phận; hay sự thay thế đơn thuần bởi bộ phận hay chức năng tương đương. Những giải pháp này không được coi là có đủ trình độ sáng tạo để được cấp bằng độc quyền sáng chế. Tuy nhiên, chúng có thể đủ điều kiện để được bảo hộ dưới dạng giải pháp hữu ích.

Thứ tư, sáng chế phải có khả năng được chế tạo ra hoặc được sử dụng trong ngành công nghiệp bất kỳ. Nghĩa là, sáng chế phải mang hình dạng thực tế của một dụng cụ hay thiết bị, một sản phẩm như nguyên liệu hay chất liệu mới hoặc một quy trình công nghiệp hoặc phương pháp vận hành.

Theo nghĩa rộng nhất, công nghiệp có nghĩa là hình thức hoạt động bất kỳ khác với hoạt động trí tuệ hoặc thẩm mỹ thuần túy. Bản thân một ý tưởng không thể được bảo hộ sáng chế, trừ khi nó là một sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp. Khái niệm “công nghiệp" bao gồm cả “nông nghiệp" .

Cuối cùng, không phải tất cả sáng chế đều có khả năng được bảo hộ sáng chế. Để được bảo hộ, sáng chế phải thuộc các đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế theo pháp luật sở hữu trí tuệ của các quốc gia.

Phụ thuộc vào pháp luật về sáng chế của mỗi nước, có sáu đối tượng có thể không được bảo hộ với danh nghĩa là sáng chế. Một là các phát minh về vật liệu và chất có trong tự nhiên. Hai là lý thuyết khoa học hoặc phương pháp toán học.

Ba là cây trồng hoặc vật nuôi (hoặc giống của chúng) mà không phải là chủng vi sinh hoặc các quy trình về cơ bản mang bản chất sinh học để sản xuất động vật hoặc thực vật (hoặc giống của chúng) mà không phải là quy trình vi sinh.

Bốn là kế hoạch, quy tắc hoặc phương pháp để thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc thực hiện các hoạt động trí óc đơn thuần hoặc chơi trò chơi. Năm là phương pháp chữa bệnh cho người và động vật, hoặc phương pháp chẩn đoán được thực hiện trên người hoặc động vật (mà không phải là các sản phẩm sử dụng trong các phương pháp đó). Sáu là sáng chế bất kỳ nếu việc ngăn cấm khai thác thương mại là cần thiết để bảo vệ trật tự xã hội, đạo đức hoặc sức khoẻ cộng đồng.