Leader talk

Đường dài Độc lập: 1945-1986, nền tảng để Đổi mới

Đặng Hoa - 27/08/2025 16:28 (GMT+7)

Hơn bốn thập niên chiến tranh và kiến thiết kể từ Độc lập năm 1945 đã tôi luyện bản lĩnh, tạo nền tảng để Đất nước bước vào giai đoạn Đổi mới đầy cam go.

Tháng 8/1945, dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới khi giành được độc lập, mở ra hành trình đầy chông gai của một quốc gia non trẻ. Từ việc dựng nên nhà nước đầu tiên của nhân dân, qua những năm dài kháng chiến chống ngoại xâm, đến giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và quản trị một đất nước thống nhất, Việt Nam đã đi qua hơn bốn thập niên thử thách để khẳng định sự tồn tại và bản lĩnh.

Chính trong hành trình nhiều hy sinh và nỗ lực đó, những nền tảng căn bản của thể chế, xã hội và kinh tế được đặt ra, trở thành tiền đề để Đổi Mới năm 1986 có thể cất cánh, mở ra một bước ngoặt lịch sử cho dân tộc.

Để soi chiếu lại chặng đường này, TheLEADER đã có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Cảnh Bình, Chủ tịch HĐQT Alpha Books và Omega Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Hợp tác trí tuệ Việt Nam (VICC), người khởi xướng Chương trình Đào tạo lãnh đạo trẻ ABG, cùng với GS.TS. Jonathan R. Pincus, nguyên Chuyên gia kinh tế cao cấp của UNDP, hiện là Giám đốc Trường Chính sách công và quản lý Fulbright, Giảng viên Trường Đại học Fulbright Việt Nam.

Bài phỏng vấn trong khuôn khổ chuyên đề "Từ Độc lập đến Thịnh vượng" do TheLEADER triển khai nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh 2/9.

Theo ông, ba bước ngoặt thể chế - kinh tế quan trọng nhất giai đoạn 1945 - 1986 là gì?

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Ba bước ngoặt thể chế - kinh tế quan trọng nhất trong giai đoạn này là sự chuyển đổi mô hình thể chế để đáp ứng các mục tiêu thời chiến và thời bình nhưng mức độ chuyển đổi khác nhau và mang lại mức độ thành công khác nhau.

Thứ nhất là từ chính quyền thuộc địa sang quốc gia độc lập (1945). Đây là bước ngoặt cơ bản nhất. Việc giành được độc lập từ tay thực dân Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến đã tạo ra một chính quyền mới, thiết lập nền tảng thể chế cho một quốc gia tự chủ. Thể chế mới này có nhiệm vụ quan trọng là huy động sức mạnh toàn dân để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn toàn quen với việc điều hành và phát triển một thể chế, kể cả ứng dụng/áp dụng Hiến pháp và các luật tổ chức chính quyền…

Thứ hai là chuyển đổi sang thể chế thời chiến (1954). Sau Hiệp định Genève, miền Bắc Việt Nam tập trung xây dựng một mô hình thể chế tập trung, ưu tiên tối đa hóa sức mạnh quân sự và quốc phòng. Thể chế này đã chấp nhận hy sinh một số yếu tố kinh tế và xã hội để dồn mọi nguồn lực cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Các chính sách như cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp đều phục vụ mục tiêu này, tạo ra một cơ cấu kinh tế đồng nhất dưới sự kiểm soát của nhà nước, nhằm đảm bảo nguồn cung cho tiền tuyến.

Thứ ba là từ thể chế chiến tranh sang thể chế hòa bình (1986). Sau khi đất nước thống nhất, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung không còn phù hợp với bối cảnh hòa bình. Việc áp dụng mô hình này vào miền Nam với nền kinh tế thị trường đã gây ra nhiều khủng hoảng nghiêm trọng. Chính sự thất bại đó đã dẫn đến yêu cầu cấp bách phải thay đổi thể chế. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 là bước ngoặt quyết định chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra kỷ nguyên Đổi Mới. Bước chuyển này mang lại thành công lớn nhưng sự thiếu chuẩn bị trước cũng làm cho quá trình chuyển đổi chịu tổn thất/thiệt hại cho một nhóm người yếu thế. Không phải tất cả cùng được hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi này, và dường như bây giờ cũng vậy, sự chuyển đổi mô hình thể chế hiện nay dường như chưa hoàn toàn suôn sẻ…

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Hiển nhiên năm 1945 và 1975 là những bước ngoặt lịch sử lớn.

Chỉ thị 100 ban hành tháng 1/1981 cho phép hợp tác xã nông nghiệp ký hợp đồng với nông dân và các nhóm lao động, nhờ đó họ có thể bán phần sản lượng vượt trên thị trường tự do. Thay đổi này, cùng với việc nâng giá thu mua của Nhà nước, đã tạo động lực để nông dân gia tăng sản xuất, tác động ngay lập tức đến năng suất. Năng suất lúa tăng 34% từ năm 1980 đến 1985, sau khi đã suy giảm trong nửa cuối thập niên 1970.

Dù vậy, tình hình vẫn hết sức khó khăn. Năm 1986, sản lượng lúa tính theo đầu người vẫn chưa đạt mức trước năm 1945. Những cải cách nông nghiệp lớn tiếp theo phải đến năm 1988 mới xuất hiện.

Bước ngoặt tiếp theo là công bố công cuộc Đổi Mới vào tháng 12/1986. Đại hội VI của Đảng đánh dấu sự chuyển đổi chiến lược, từ công nghiệp hóa do Nhà nước dẫn dắt sang một nền kinh tế hỗn hợp, tập trung vào sản xuất nhu yếu phẩm - lương thực, hàng tiêu dùng, đồng thời khuyến khích ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Dù các cải cách cụ thể chỉ hình thành vào những năm sau đó, nhưng thông điệp được đưa ra đã thể hiện sự thay đổi lớn về tư duy.

GS.TS. Jonathan R. Pincus, nguyên Chuyên gia kinh tế cao cấp của UNDP, hiện là Giám đốc Trường Chính sách công và quản lý Fulbright, Giảng viên Trường Đại học Fulbright Việt Nam. Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Quốc hội

Trong điều kiện chiến tranh/khan hiếm, Việt Nam đã giữ vận hành nhà nước ra sao?

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Trong thời kỳ chiến tranh, Nhà nước đã duy trì hoạt động bằng cách xây dựng một nhà nước tối thiểu, tập trung vào các chức năng cốt lõi. Mô hình này được vận hành dựa trên nguyên tắc “chiến tranh nhân dân”, huy động mọi nguồn lực từ cộng đồng và xã hội để phục vụ mục tiêu quân sự.

Một là, dựa vào sức dân là chính. Nhà nước tối thiểu chỉ tập trung vào những nhu cầu thiết yếu nhất cho quân đội và dân chúng, bao gồm lương thực, vũ khí và y tế. Các cơ quan hành chính được tinh giản, gọn nhẹ. Mọi hoạt động sản xuất, phân phối đều được kiểm soát chặt chẽ thông qua tem phiếu và kế hoạch.

Hai là, huy động nguồn lực quốc tế. Song song với việc tự lực cánh sinh, Nhà nước cũng tìm kiếm và tận dụng tối đa sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa.

Ba là, chấp nhận hy sinh và mất mát. Nền kinh tế thời chiến không tập trung vào phát triển, mà chỉ nhằm duy trì sự sống còn. Điều này dẫn đến sự trì trệ trong nhiều lĩnh vực và sự chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích chung của quốc gia.

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Theo tôi, điểm mạnh của Chính phủ Việt Nam trong chiến tranh và thời kỳ khan hiếm là sự linh hoạt và luôn tập trung vào phát triển nông thôn. Phần lớn những cải cách sau này được gọi là Đổi mới thực chất không xuất phát từ trung ương, mà là kết quả thử nghiệm của chính quyền địa phương. Năng lực học hỏi từ các thử nghiệm đó là yếu tố cốt lõi của tiến trình cải cách.

Có lúc những thử nghiệm này bị ngăn chặn vì lý do ý thức hệ hoặc tính khả thi, nhưng sự tiến bộ đạt được khi các sáng kiến địa phương được phép phát triển và bài học từ đó có thể nhân rộng.

Những thử nghiệm cải cách trước 1986 để lại bài học gì, thưa ông?

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Chúng ta có thể coi những cải cách trước 1986 là các thử nghiệm chính sách. Có thử nghiệm thành công, có thử nghiệm thất bại.

Khoán hộ là thành công rõ rệt, mở đường cho cải cách sâu rộng hơn sau năm 1989. Ngược lại, cải cách giá - lương - tiền không thành công, khiến lạm phát tăng mạnh và cuối cùng dẫn tới việc từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nguyên nhân là sự hiểu biết chưa đầy đủ về bất ổn giá cả.

Việc để giá hàng tiêu dùng phản ánh thị trường là một bước tiến, nhưng trong bối cảnh thâm hụt ngân sách và mở rộng tiền tệ, gói chính sách này trở nên lạm phát. Lạm phát lại khuyến khích tích trữ hàng hóa, vốn ngày càng tăng giá khi tình trạng khan hiếm kéo dài.

Đây là bài học khó khăn cho các nhà hoạch định về tầm quan trọng của khuôn khổ kinh tế vĩ mô lành mạnh để khuyến khích đầu tư vào sản xuất và thương mại.

Chỉ số phản ánh năng lực Nhà nước giai đoạn 1945 - 1986 là việc đất nước đã trải qua bốn cuộc chiến tranh và đạt được mục tiêu chiến lược trong cả bốn. Không có minh chứng nào nổi bật hơn thế!

GS.TS. Jonathan R. Pincus

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Tôi cho rằng, các thử nghiệm cải cách trước năm 1986 là những nỗ lực thay đổi tư duy và cơ chế quản lý nhưng đã không thành công hoàn toàn vì sự áp đặt ý chí quá mức từ mô hình thời chiến lên thời bình. Nhưng cũng chính nhờ áp lực quốc tế (CNXH Đông Âu sụp đổ) khiến cho sự thay đổi theo hướng thị trường nhanh hơn, quyết liệt hơn để bù đắp những thiếu hụt hàng hóa. Và chính điều đó mang lại sự thay đổi mạnh mẽ mà dường như ban đầu chưa hình dung hết…

Chúng ta có bài học về sự không linh hoạt. Trong chiến tranh, việc áp đặt ý chí và ra quyết định tập trung là cần thiết để huy động nguồn lực. Tuy nhiên, khi chuyển sang thời bình, mô hình này trở nên cứng nhắc và không thể thích ứng với những nhu cầu đa dạng của xã hội.

Đó còn là bài học về sự cần thiết của tự do và đa dạng. Các thử nghiệm như khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã cho thấy rằng khi trao quyền tự chủ cho người dân, sản xuất sẽ phát triển và năng suất tăng lên rõ rệt. Bài học này chỉ ra rằng một nền kinh tế đa thành phần, với sự tự do trong sản xuất và lưu thông, là điều kiện tiên quyết để tạo ra sự sáng tạo và thịnh vượng.

Khi nhìn lại bốn thập niên 1945 - 1986, ông thấy yếu tố nào thể hiện rõ nhất năng lực Nhà nước?

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Chỉ số phản ánh năng lực Nhà nước giai đoạn 1945 - 1986 là việc đất nước đã trải qua bốn cuộc chiến tranh và đạt được mục tiêu chiến lược trong cả bốn. Không có minh chứng nào nổi bật hơn thế!

Ông Nguyễn Cảnh Bình, Chủ tịch HĐQT Alpha Books và Omega Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Hợp tác trí tuệ Việt Nam (VICC), người khởi xướng Chương trình Đào tạo lãnh đạo trẻ ABG.

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Tôi đồng tình với GS. Jonathan! Chỉ số để đo “năng lực nhà nước” giai đoạn này chính là khả năng thu hút nguồn lực của toàn xã hội cho mục tiêu chiến thắng và thống nhất đất nước thông qua việc thuyết phục và huy động nguồn lực từ nhân dân để đạt được mục tiêu chiến lược của quốc gia.

Năng lực cốt lõi của Nhà nước không phải là quản lý kinh tế hay cung cấp dịch vụ công mà là khả năng truyền tải và thuyết phục người dân tin tưởng vào mục tiêu chiến đấu và chấp nhận hy sinh những lợi ích cá nhân. Việc người dân sẵn sàng đóng góp sức lao động, của cải, thậm chí là tính mạng, để đi theo sự lãnh đạo của Nhà nước trong một cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm là bằng chứng mạnh mẽ nhất về năng lực này.

Sự huy động nguồn lực xã hội và cộng đồng có vai trò quan trọng trong thời chiến. Kinh nghiệm này còn mang giá trị cho phát triển của Việt Nam hôm nay hay không?

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Sự kiên cường của người Việt Nam được cả thế giới ngưỡng mộ. Hết lần này đến lần khác, Việt Nam đã vượt qua thử thách đặt ra cho Nhà nước và nhân dân.

Theo quan điểm của tôi, thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối diện hiện nay là biến đổi khí hậu và chuyển dịch sang năng lượng tái tạo. Với đặc điểm địa hình ven biển thấp, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu rủi ro lớn nhất từ nước biển dâng. Những thay đổi trên sông Mekong là mối đe dọa trực tiếp với Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước.

Thích ứng với biến đổi khí hậu đòi hỏi huy động nguồn lực ở mọi cấp độ, từ hợp tác quốc tế đến quy hoạch quốc gia, vùng, và nỗ lực cộng đồng trong việc chung tay chia sẻ nguồn lực.

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Theo tôi, vai trò của cộng đồng trong huy động nguồn lực vẫn còn nguyên giá trị, nhưng phải được áp dụng một cách hài hòa và nhân văn.

Về giá trị cốt lõi, vai trò của cộng đồng không thể bị phủ nhận. Nó tồn tại vì những lợi ích chung của xã hội và là một phần tất yếu của cuộc sống. Không thể xóa bỏ cộng đồng, các nhóm lợi ích, các lực lượng xã hội

Nhưng cần lưu ý, không thể lạm dụng vai trò của cộng đồng để thay thế chức năng của Nhà nước, cũng như không thể hy sinh toàn bộ lợi ích cá nhân khi không còn cần thiết. Vai trò của Nhà nước là tạo ra một thể chế, một nền tảng pháp lý để cộng đồng có thể phát triển, tự tổ chức và đóng góp những giá trị nhân văn mà không bị cưỡng ép hay lạm dụng.

Điều gì thường bị hiểu sai khi nhìn lại 1945 - 1986?

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Một trong những điều thường bị hiểu sai khi nhìn lại giai đoạn 1945 - 1986 là đánh giá phiến diện về vai trò của thể chế nhà nước thời kỳ đó.

Nhiều người chỉ tập trung vào những hạn chế của thể chế kế hoạch hóa tập trung nhưng lại bỏ qua bối cảnh lịch sử mà nó tồn tại. Thể chế này không phải là một sai lầm hoàn toàn. Nó được tạo ra để phục vụ cho một mục tiêu cụ thể, đó là chiến tranh. Việc áp dụng một thể chế thời chiến vào thời bình là không hợp lý, nhưng việc nó đã hoàn thành mục tiêu chiến lược của mình là một sự thật không thể phủ nhận. Thể chế đó đã tồn tại và vận hành hiệu quả trong bối cảnh chiến tranh, giúp đất nước giành được độc lập và thống nhất.

Một thể chế vững mạnh phải là một thể chế có khả năng tự đổi mới và thích ứng với những thay đổi của xã hội và thế giới.

Ông Nguyễn Cảnh Bình, Chủ tịch HĐQT Alpha Books và Omega Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Hợp tác trí tuệ Việt Nam (VICC).

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Tôi thì nhận thấy rằng, ngày nay, nhiều người nghĩ Đổi mới là một quyết định duy nhất và nhanh chóng được triển khai từ năm 1986. Nhưng thực tế, tiến trình này kéo dài nhiều năm và dựa trên những thử nghiệm cấp địa phương, trong nông nghiệp, thương mại, sản xuất, tài chính, được tiến hành từ cuối thập niên 1970, thậm chí sớm hơn và tiếp diễn đến tận giữa thập niên 1990.

Nhìn từ giai đoạn 1945 - 1986, đâu là bài học thể chế quan trọng nhất mà Việt Nam cần ghi nhớ để định hình cải cách 2025 - 2030?

Ông Nguyễn Cảnh Bình: Bài học thể chế còn nguyên giá trị cho cải cách 2025 - 2030 là phải xây dựng thể chế phù hợp với mục tiêu và bối cảnh của từng giai đoạn phát triển.

Hiện nay, Việt Nam cần xác định lại mục tiêu của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một thể chế vững mạnh phải là một thể chế có khả năng tự đổi mới và thích ứng với những thay đổi của xã hội và thế giới. Bài học từ giai đoạn 1945 - 1986 cho thấy việc duy trì một thể chế đã lạc hậu sẽ dẫn đến khủng hoảng.

Do đó, việc xây dựng một thể chế cho giai đoạn 2025 - 2030 phải dựa trên những nguyên tắc chung của các quốc gia văn minh: minh bạch, thượng tôn pháp luật, và tạo điều kiện cho sự tự do, sáng tạo của người dân, tự do, công bằng, bình đẳng... Chỉ khi thể chế đi trước và làm nền tảng cho sự phát triển thì đất nước mới có thể tiến xa và bền vững.

GS.TS. Jonathan R. Pincus: Tôi cho rằng bài học quan trọng nhất từ giai đoạn này là cải cách thành công không đi từ trên xuống mà từ dưới lên. Hãy bắt đầu từ các thử nghiệm ở địa phương hoặc trong ngành, đánh giá cái gì hiệu quả, cái gì không, rồi nhân rộng những gì thành công. Điều không hiệu quả là áp đặt một mô hình phát triển đồng nhất từ trên xuống cho cả nước. Hiện nay, thách thức đã rất khác. Đó là việc thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển dịch từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo và thoát bẫy thu nhập trung bình. Những thách thức này đòi hỏi hợp tác và học hỏi ở mọi cấp độ: quốc tế, quốc gia, vùng và địa phương.

Nhưng tôi tin rằng chìa khóa vẫn là thử nghiệm. Sẽ không có một đáp án duy nhất. Sẽ có nhiều đáp án, và chúng ta cần tìm ra chúng thông qua quá trình thử và sai.

Xin chân thành cảm ơn!

Vươn mình bằng chiều sâu văn hóa

Vươn mình bằng chiều sâu văn hóa

Leader talk -  5 ngày
Để trỗi dậy mạnh mẽ và vươn mình bền vững, Việt Nam ta cần có một thế hệ doanh nhân có chiều sâu văn hóa, tính nhân bản và tinh thần ái quốc.
Ý kiến ( 0)
Thế hệ doanh nhân vượt sóng bằng sức trẻ

Thế hệ doanh nhân vượt sóng bằng sức trẻ

Leader talk -  2 ngày

Thế hệ doanh nhân trẻ đang có những chuyển biến khá rõ nét từ sâu thằm bên trong tư duy để đảm nhận những trọng trách lớn lao.

Chính quyền phục vụ sẽ không còn là khẩu hiệu

Chính quyền phục vụ sẽ không còn là khẩu hiệu

Leader talk -  5 ngày

Những thay đổi có tính cách mạng liên quan đến tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và các đơn vị hành chính là bước chuyển chiến lược để hướng đến nền quản trị quốc gia hiện đại, với chính quyền kiến tạo phát triển, phục vụ nhân dân, và phụng sự đất nước.

Kinh tế tư nhân trước bước ngoặt lịch sử

Kinh tế tư nhân trước bước ngoặt lịch sử

Leader talk -  1 tuần

Từ hành trình thoát khỏi sự ràng buộc tư tưởng, đến kỷ nguyên vươn mình.

Giá nhà cao, dự án mới dồn dập: Dòng tiền thông minh sẽ đổ về đâu?

Giá nhà cao, dự án mới dồn dập: Dòng tiền thông minh sẽ đổ về đâu?

Leader talk -  8 giờ

Ông Nguyễn Văn Long, Phó tổng giám đốc Mai Việt Land cho rằng, thị trường bất động sản năm 2025 không còn sân chơi của những nhà đầu cơ ngắn hạn. Trong bối cảnh mới, một tư duy mới trong đầu tư bất động sản đang ngày càng được khẳng định, nơi những sản phẩm có giá trị sử dụng thực, dễ dàng khai thác cho thuê, tạo ra dòng tiền bền vững lên ngôi.

CT Group đang ấp ủ điều gì phía sau chiến lược máy bay không người lái?

CT Group đang ấp ủ điều gì phía sau chiến lược máy bay không người lái?

Leader talk -  1 ngày

Sau một thập kỷ nghiên cứu, đầu tư vào khoa học công nghệ, CT Group đang dần lộ diện tham vọng chiếm lĩnh kinh tế không gian tầm thấp.

Hai thập kỷ 'mở đường' năng lượng tái tạo của SolarBK

Hai thập kỷ 'mở đường' năng lượng tái tạo của SolarBK

Leader talk -  2 ngày

Không ồn ào mà chọn lối đi riêng, SolarBK không chỉ khẳng định được vị thế mà luôn là người tiên phong trên thị trường năng lượng tái tạo sau hai thập kỷ.

Doanh nhân kiến quốc trong kỷ nguyên mới

Doanh nhân kiến quốc trong kỷ nguyên mới

Leader talk -  2 ngày

Khi đội ngũ doanh nhân mang trong mình khát vọng dân tộc, tư duy toàn cầu và tinh thần phụng sự, họ không chỉ làm giàu cho bản thân, mà còn kiến tạo vận hội mới cho đất nước.

Thế hệ doanh nhân vượt sóng bằng sức trẻ

Thế hệ doanh nhân vượt sóng bằng sức trẻ

Leader talk -  2 ngày

Thế hệ doanh nhân trẻ đang có những chuyển biến khá rõ nét từ sâu thằm bên trong tư duy để đảm nhận những trọng trách lớn lao.

Đường dài Độc lập: 1945-1986, nền tảng để Đổi mới

Đường dài Độc lập: 1945-1986, nền tảng để Đổi mới

Leader talk -  30 phút

Hơn bốn thập niên chiến tranh và kiến thiết kể từ Độc lập năm 1945 đã tôi luyện bản lĩnh, tạo nền tảng để Đất nước bước vào giai đoạn Đổi mới đầy cam go.

TPBank muốn tăng sở hữu tại TPS lên 51%

TPBank muốn tăng sở hữu tại TPS lên 51%

Tài chính -  59 phút

Động thái cho thấy chiến lược mở rộng sang lĩnh vực chứng khoán, từng bước hoàn thiện hệ sinh thái tài chính của TPBank.

Cake by VPBank đạt giải ngân hàng số tốt nhất Việt Nam 2025

Cake by VPBank đạt giải ngân hàng số tốt nhất Việt Nam 2025

Nhịp cầu kinh doanh -  1 giờ

Ngân hàng số Cake đang nỗ lực ứng dụng công nghệ để tối ưu hóa hoạt động và nâng cao trải nghiệm cho hơn 6 triệu khách hàng.

Đà Nẵng cấp phép cho dự án tài sản số đầu tiên tại Việt Nam

Đà Nẵng cấp phép cho dự án tài sản số đầu tiên tại Việt Nam

Tài chính -  2 giờ

Ngày 26/8/2025, UBND TP. Đà Nẵng đã cấp phép cho dự án Basal Pay, ứng dụng công nghệ blockchain trong chuyển đổi tài sản số sang tiền pháp định và ngược lại.

TTC Land M vận hành tòa nhà Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM

TTC Land M vận hành tòa nhà Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM

Nhịp cầu kinh doanh -  6 giờ

TTC Land M - công ty con của TTC Land được chọn làm đơn vị quản lý vận hành tòa nhà Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo TP.HCM.

Thách thức hạ tầng sạc với giao thông xanh Việt Nam

Thách thức hạ tầng sạc với giao thông xanh Việt Nam

Phát triển bền vững -  8 giờ

Cuộc đua xe điện đang tăng tốc từng ngày nhưng nếu không tháo gỡ được bài toán trạm sạc thì mục tiêu giao thông xanh sẽ khó về đích.

Tiếp sức từ ngân hàng, startup Việt thêm nhiều cơ hội để bứt phá

Tiếp sức từ ngân hàng, startup Việt thêm nhiều cơ hội để bứt phá

Nhịp cầu kinh doanh -  8 giờ

Không phụ thuộc hoàn toàn vào tài sản đảm bảo mà thẩm định dựa trên dòng tiền, tiềm năng mô hình kinh doanh và năng lực đội ngũ sáng lập, thời gian phê duyệt nhanh, giải ngân kịp thời theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp… ngân hàng giờ đây đã và đang dần sáng tạo hơn trong việc tiếp vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Từ đó, các startup Việt tiềm năng không cần phải “xuất ngoại” để tìm nguồn lực phát triển. Đây được xem là “chìa khóa” giúp doanh nghiệp startup phát triển đột phá trong thời gian tới.