Giải pháp nào hạn chế thiên tai cho miền Trung?

An Chi - 14:44, 02/11/2020

TheLEADERTheo đại diện Bộ Tài nguyên và môi trường, điều kiện tự nhiên, hoạt động xây dựng làm mất rừng... là các nguyên nhân chính dẫn đến thiên tai tại khu vực miền Trung.

Giải pháp nào hạn chế thiên tai cho miền Trung?
Thành phố Huế ngập trong biển nước

Liên quan đến tình hình mưa lũ, sạt lở đất nghiêm trọng tại miền Trung và trách nghiệm của các bộ ngành, tại buổi họp báo Chính phủ tháng 10/2020, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp khẳng định, đợt thiên tai tại miền Trung vừa rồi rất dị thường và bất thường. 

Chưa bao giờ trong vòng 20 ngày mà miền Trung chịu 4 cơn bão. Việc này các cơ quan quản lý đã cảnh báo rất sớm. Ngay từ tháng 1/2020, tại Hội nghị toàn quốc về thiên tai, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng Bộ Tài nguyên và môi trường đã cảnh báo năm nay sẽ có khoảng 5 đến 6 cơn bão ở miền Trung, trong đó sẽ có những cơn bão rất lớn. 

Bộ cũng đã cảnh báo trước 15 ngày về đợt lụt lịch sử tại Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Thời gian vừa qua đã có 56,1 triệu lượt tin nhắn gửi đến bà con miền Trung.

Song thiên tai vẫn để lại hậu quả nặng nề cho người dân theo ông Hiệp là do có một số địa phương diện ngập lụt rộng. Ở Lệ Thủy (Quảng Bình), mực nước có nhà ngập đến 6,3m, vượt cả mức lũ lụt lịch sử. Lũ trên diện rộng nên bà con không biết tránh trú ở chỗ nào.

Bên cạnh đó, theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê Quang Hùng, có 3 hình thái thiên tai là gió bão, lũ lụt và lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Trong đó, với lũ ống, lũ quét sạt lở đất, không có giải pháp công trình nhà ở nào có thể chịu được.

Giải pháp để phòng chống loại hình thiên tai này là lựa chọn địa điểm xây dựng công trình để tránh được lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. 

Hiện nay đã có bản đồ về lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nhưng tỉ lệ không cao, khoảng 1/20.000 hoặc 1/50.000 nên trong bản đồ này xã chỉ là một chấm nhỏ, vấn đề làm sao là phải đưa ra tỉ lệ 1/500. Bộ Xây dựng sẽ phối hợp cùng các chuyên gia để chuyển tỉ lệ này về 1/500 thì khi đó mới quản lý được, ông Hùng cho hay.

Với những công trình đã xây dựng như nhà đang tồn tại, theo ông Hùng, có hai giải pháp, một rà soát để di dời, lựa chọn địa điểm khác như đã nói. Hai là cần có hướng dẫn cụ thể để người dân có thể nhận được cảnh báo. 

Còn theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường Lê Công Thành, đợt thiên tai vừa rồi khốc liệt hơn đợt thiên tai năm 1999, xảy ra tại khu vực miền Trung với 4 trận bão liên tiếp (số 6, 7, 8, 9) trong đó cơn bão số 9 mạnh nhất 20 năm vừa qua, mưa lớn kéo dài đã gây ra lượng mưa lớn hơn cả lịch sử năm 1999. Tuy nhiên, với sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và các địa phương, đến giờ này, thiệt hại cũng đã được hạn chế đi nhiều. 

Về nguyên nhân của thiên tai, lũ lụt và trước câu hỏi hoạt động của con người có làm tăng thêm thiên tai hay không, theo ông Thành, các chuyên gia về địa chất đánh giá rằng nguyên nhân chính dẫn đến thiên tai tại khu vực miền Trung là do đây là khu vực đồi núi cao, phân cách, về địa chất có nhiều loại đất đá cổ, bị đập vỡ nứt nẻ tạo ra các lớp vỏ phong hóa rất dày, nhiều đất sét. 

Đây là điều kiện hết sức bất lợi, khi mưa lớn, đặc biệt lâu ngày, nước chứa trong các lớp phong hóa này sẽ bị nhão và có lực trượt kéo xuống phía dưới.

Ngoài ra, do hoạt động dân sinh, khi phát triển, cần mở đường, san ủi để có mặt bằng xây dựng nhà ở, trường học, xây dựng các cơ sở hạ tầng, trong đó có cả các nhà máy thủy điện để bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước. Những hoạt động này là nguyên nhân "kích hoạt" để thiên tai có thể xảy ra.

Đối với việc mất rừng có phải là nguyên nhân dẫn đến lũ quét, sạt lở đất, ông Thành cho rằng, cần đánh giá trong từng trường hợp cụ thể. Năm 2016 ở Yên Bái, những trận sạt lở đất kinh hoàng đã xảy ra ở khu vực rừng nguyên sinh. Do đó, thiên tai có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trong vụ sạt lở đất vừa rồi, công trình thủy điện Rào Trăng 3 đang trong quá trình xây dựng thì xảy ra sự cố đáng tiếc. Thực tế vừa qua, mưa lũ đều lớn hơn năm 1999 nhưng có thể nói chính quyền địa phương các tỉnh miền Trung đã thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa, điều hành, cắt được rất nhiều lượng nước. 

Nếu lượng nước này mà về hạ du thì diện ngập, mức độ ngập hơn mức năm 1999. Thời gian vừa qua chỉ có một số điểm ở mức lũ lịch sử, còn ở hạ du đã được cắt lũ, diện ngập, độ sâu ngập thấp hơn đáng kể so với năm 1999.

Cũng theo ông Thành, việc đánh giá tác động môi trường cho các công trình thủy điện nhỏ, Bộ Tài nguyên và môi trường, các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia đã đánh giá thẩm định về các yếu tố tác động đến đặc thù, bao gồm tác động đến rừng, thảm thực vật và đa dạng sinh học, đánh giá dòng chảy tối thiểu mà thủy điện trả lại cho hạ du và các yếu tố liên quan khác. 

Luật Lâm nghiệp cũng đã có quy định hết sức chặt chẽ về việc chuyển đổi đất rừng cho tất cả các loại dự án, không riêng gì các dự án thủy điện với các biện pháp hạn chế hết sức chặt chẽ. Việc bảo đảm trồng lại rừng, phát triển rừng, hiện nay một số nhà máy thủy điện đã bắt đầu nâng cao nhận thức, thực hiện vừa giữ nguồn sinh thủy cho khu vực nhà máy của mình vừa bảo đảm tránh sạt lở đất.

Trong thời gian tới, để giảm thiểu các nguy cơ này, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Công thương và các bộ có liên quan đã tham mưu cho Chính phủ loại bỏ 472 quy hoạch thủy điện nhỏ ra khỏi quy hoạch. 213 điểm tiềm năng có thể xây dựng thủy điện cũng cần được xem xét hết sức kỹ lưỡng, chặt chẽ để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi, bảo đảm bền vững, tránh được những rủi ro thiên tai như trong thời gian vừa qua.