RCEP không hoàn toàn màu hồng với Việt Nam

Phương Linh - 08:00, 20/11/2020

TheLEADERMặc dù sở hữu các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, song RCEP không hoàn toàn màu hồng với Việt Nam khi thực tế cho thấy Việt Nam vẫn nhập siêu phần lớn từ các quốc gia trong RCEP - nơi mà các nền kinh tế đều định hướng xuất khẩu.

RCEP không hoàn toàn màu hồng với Việt Nam
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương

Sau 8 năm đàm phán, Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP), thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới do ASEAN khởi xướng vừa được ký kết trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 tại Hà Nội. 

RCEP là hiệp định thương mại tự do được đề xuất giữa 10 quốc gia thành viên của ASEAN và các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand.

Khi được ký kết và đi vào thực thi, RCEP sẽ hình thành khu vực kinh tế lớn nhất từ trước đến nay, với GDP chiếm tới 32% tổng GDP toàn cầu, khoảng 32.000 tỷ USD, chiếm 47,5% dân số thế giới. 

RCEP sẽ tạo ra một không gian phát triển mới cho các nước thành viên ASEAN để có thể phục hồi trong thời gian tới. 

Đây cũng là hiệp định được kỳ vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam và các nước thành viên.

Theo ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương), trong bối cảnh của đại dịch Covid-19 bùng phát làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.

Thứ nhất, RCEP khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn. Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ (thay vì áp dụng 5 bộ quy tắc xuất xứ của 5 hiệp định FTA như hiện nay) giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại. 

Việc thiết lập hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia.

Thứ hai, trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới như RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu.

Thứ ba, việc thực hiện RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp... góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. 

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, việc Việt Nam chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế cao hơn so với lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước, làm cho Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.

Tại buổi sinh hoạt báo chí chuyên đề "Hiệp định RCEP: Cơ hội và thách thức" do Bộ Công thương tổ chức, ông Thái cho rằng, năm 2020, Việt Nam liên tiếp đón tin vui từ việc ký kết các hiệp định FTA lớn như CPTPP, EVFTA và mới đây là RCEP. 

Cùng với các CPTPP và EVFTA, RCEP là một FTA lớn của Việt Nam và bổ trợ quan trọng cho các hiệp định trên.

Đáng chú ý, RCEP bao gồm một số lĩnh vực mới chưa được cam kết trong các hiệp định FTA của ASEAN trước kia như thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ, nhưng nội dung và mức độ cam kết phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước ASEAN khác. Các nội dung này cũng đã được cam kết trong các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA.

Do vậy, mức độ cam kết của Việt Nam trong RCEP nhìn chung là hài hòa, có cao hơn các FTA ASEAN cộng hiện có nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia là CPTPP và EVFTA.

Về quy mô thị trường, với dân số trong khu vực lên tới hơn 2,2 tỷ người, RCEP có phần nhỉnh hơn so với CPTPP và EVFTA. Đây sẽ là sự bổ sung đáng kể về mặt thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, bên cạnh các thị trường được mở ra từ việc ký kết CPTPP và EVFTA.

Ngoài ra, RCEP cũng bổ trợ cho CPTPP và các FTA mà Việt Nam đã ký trước đây với các nền kinh tế lớn trong RCEP, như VJFTA với Nhật Bản, KVFTA với Hàn Quốc, AFTA với ASEAN khi cung cấp thêm lựa chọn cho việc tận dụng các cơ hội và ưu đãi từ cam kết trong các hiệp định này. 

Ví dụ như việc sử dụng mẫu C/O theo mỗi FTA một cách phù hợp, nhằm có được mức ưu đãi thuế quan cao nhất trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.

Thách thức không nhỏ với doanh nghiệp Việt

Mặc dù sở hữu các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, song rõ ràng RCEP không hoàn toàn màu hồng với Việt Nam khi thực tế cho thấy Việt Nam là nước nhập siêu phần lớn từ các quốc gia trong RCEP - nơi mà các nền kinh tế đều định hướng xuất khẩu.

Cụ thể, với thị trường Trung Quốc, Việt Nam nhập siêu 33,8 tỷ USD, tỷ lệ tăng trưởng nhập siêu 40% năm 2019. Với ASEAN, Việt Nam nhập siêu 7 tỷ USD; với Úc nhập siêu 0,9 tỷ USD; với Hàn Quốc nhập siêu 27 tỷ USD. Chỉ có thị trường Nhật Bản, Việt Nam xuất siêu 0,8 tỷ USD năm 2019 so với nhập siêu 0,2 tỷ USD năm 2018 . 

Về vấn đề này, ông Lương Hoàng Thái cho rằng, với các nước ASEAN thì đây là hiệp định không hướng đến giá trị gia tăng mới về mở cửa thị trường do ASEAN đều đã ký FTA với các đối tác. Thay vào đó, RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác với ASEAN trong một hiệp định FTA. 

Ví dụ, doanh nghiệp sẽ chỉ phải sử dụng 1 quy tắc xuất xứ thay vì 5 bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. 

Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường. 

Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Với góc độ hài hòa các quy định hiện hành trong các hiệp định ASEAN đã có với các đối tác thì hiệp định được coi là có giá trị cao trong việc giảm chi phí giao dịch, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường vị trí trung tâm của ASEAN trong việc giải quyết các xung đột về thương mại trong khu vực. 

Với góc độ như vậy, RCEP chắc chắn sẽ không làm trầm trọng nhập siêu, thậm chí là có khả năng cải thiện cho Việt Nam và các nước ASEAN, đặc biệt là trong dài hạn.

Mặt khác, ông Thái cho rằng, nhập siêu hay không là một yếu tố cần xem xét nhưng không phải là yếu tố duy nhất khi cân nhắc lợi ích của các FTA. 

Đơn cử như trường hợp Việt Nam có FTA song phương và khu vực với Hàn Quốc, hiện nay có thêm quan hệ thương mại thông qua RCEP. 

Mặc dù còn nhập siêu lớn nhưng không thể phủ nhận giá trị của các hiệp định này trong việc giúp gắn kết hai nền kinh tế, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và đem lại nhiều giá trị cụ thể cho người dân và doanh nghiệp hai bên. 

Khi Việt Nam gia nhập WTO thì nhập siêu cũng rất lớn nhưng từ việc chấp nhận hội nhập để tự vươn lên thì doanh nghiệp của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp không bị giảm đi mà còn tăng lên đáng kể. 

Tuy vậy, ông Thái không phủ nhận việc các nền kinh tế trong RCEP có mối tương đồng và cạnh tranh rất cao. 

Khi RCEP đi vào thực thi sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh do đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP có nhiều điểm tương đồng, thậm chí có năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn.

Mặt khác, RCEP cũng mang lại sức ép cạnh tranh hàng hóa cho Việt Nam do nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự. 

Đặc biệt, Trung Quốc với lợi thế hàng hóa phong phú, giá rẻ cũng sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam. Vì vậy, ngay cả khi mặt hàng nông, thủy sản là thế mạnh của Việt Nam nhưng cũng chính là thách thức cạnh tranh trong khu vực RCEP này.

Bên cạnh đó, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do như RCEP cũng sẽ giúp hàng ngoại tràn ngập thị trường Việt Nam, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nước khi cạnh tranh trên chính sân nhà.

Vì vậy, tham gia vào hiệp định thương mại tự do nào với những thành viên có trình độ kỹ thuật cao hơn sẽ là thách thức lớn nhất với các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi mình, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.

Đưa ra lời khuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới, ông Thái cho rằng, việc cần làm là các doanh nghiệp cần tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cũng như cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực.

Bên cạnh các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, bộ, ngành và các địa phương, các doanh nghiệp cần chủ động và tích cực nghiên cứu kỹ cam kết của hiệp định, nhất là các cam kết liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình. 

Ví dụ như lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và các nước tham gia hiệp định, quy tắc xuất xứ của hiệp định, cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại.

Ngoài các lợi ích, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi mà RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.

Doanh nghiệp trong nước cần chủ động thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, chuyển sức ép về cạnh tranh thành động lực để tự đổi mới và phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm để có lợi thế cạnh tranh không chỉ ở trong nước mà còn ở thị trường quốc tế.

Đồng thời, doanh nghiệp cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của hiệp định để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.