Gỡ nút thắt vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Minh Quân - 00:00, 19/07/2017

TheLEADERVốn là một trong những nhân tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, không chủ động, khó đổi mới nếu tiềm lực tài chính hạn hẹp.

Tính đến hết năm 2016, cả nước hiện có khoảng 700.000 doanh nghiệp, trong đó, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) chiếm gần 98% với doanh thu dưới 100 tỷ đồng. Trong số này lại có đến 70% là những doanh nghiệp có doanh thu dưới 20 tỷ đồng.

Dù chiếm đông đảo tại Việt Nam nhưng doanh nghiệp siêu nhỏ lại chưa thực sự được nhiều ngân hàng chú ý đến. Những hứa hẹn, cam kết cho vay trên giấy, không thực chất đã khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu tự tin khi gõ cửa ngân hàng vay vốn.

Vốn vay – bài toán khó của SMEs

Theo nhận định của TS. Nguyễn Hải An, Giám đốc Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao: Vốn là một trong những nhân tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, không chủ động, khó đổi mới nếu tiềm lực tài chính hạn hẹp.

Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp SMEs tình trạng thiếu vốn đang là một trong những khó khăn lớn nhất. Thực trạng hiện nay là nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam khá nhỏ, yếu và bị động.

Ông An đánh giá, việc tiếp cận nguồn vốn hạn chế gây ra tình trạng phổ biến là các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.

Theo thống kê từ một cuộc điều tra của VCCI trong năm 2016, có đến gần 60% số doanh nghiệp siêu nhỏ không tiếp cận vốn từ ngân hàng và cũng có khoảng 35-40% các doanh nghiệp SMEs không có khoản vay vốn tại ngân hàng. 

Ông Hoàng Xuân Hải, Giám đốc Công ty Cổ phần Quốc tế VAG chuyên sản xuất, xuất khẩu các loại khăn bông cho biết, sản phẩm của công ty đã được đưa vào các siêu thị khách sạn lớn ở Hà Nội. Hiện công ty ông muốn mở rộng thêm nhưng do không có tài sản thế chấp vì nhà xưởng đi thuê, ôtô cũng không có… nên đến thời điểm này ông Hải đã làm việc với 7 ngân hàng nhưng đều nhận được cái “lắc đầu” từ chối cho vay vốn.

Còn ông Trần Văn Thời, Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại xuất nhập khẩu Starfoods Việt Nam cho biết, doanh nghiệp của ông chuyên xuất khẩu quế và hồi sang châu Âu. Hiện công ty đang có nhu cầu vay 10 tỷ đồng để mở rộng thị trường sang Trung Đông nhưng lại khó chứng minh dòng tiền với ngân hàng.

Đặc biệt, ông Thời cũng lo ngại về việc một số ngân hàng đang cho vay tín chấp với lãi suất trên 20%. “Chúng tôi có thể chấp nhận được được mức lãi suất từ 12-15% chứ trên 20% thì cao quá. Tôi cũng mong muốn ngân hàng hỗ trợ thêm các doanh nghiệp bằng cách giảm thêm các mức lãi suất xuống hơn nữa,” ông Thời nhấn mạnh.

Theo ý kiến đa số các đại diện từ các doanh nghiệp SMEs tham dự cho biết họ không thể tiếp cận nguồn vốn ngân hàng bởi các lý do sau:

  • Số năm thành lập ngắn
  • Thiếu tài sản đảm bảo bảo hoặc tài sản đảm bảo được định giá không đúng mong đợi
  • Báo cáo tài chính, báo cáo thuế và hệ thống sổ sách chưa chuẩn, chưa đầy đủ
  • Thủ tục tại ngân hàng phức tạp, thời gian phê duyệt kéo dài; chưa nhiều ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ, có sự khác biệt trong chính sách giữa các chi nhánh cùng một ngân hàng
  • Khó tiếp cận thông tin với các doanh nghiệp ở các tỉnh, huyện không phải thành phố lớn

Ông Đào Gia Hưng, Phó giám đốc khối doanh nghiệp SMEs của VPBank thừa nhận, khúc mắc lớn nhất của những doanh nghiệp không tiếp cận được vốn của ngân hàng là không có tài sản thế chấp. Khúc mắc này làm cho doanh nghiệp siêu nhỏ và ngân hàng ngày càng cách xa nhau.

Lý giải về nguyên nhân "bỏ rơi" nhóm khách hàng siêu nhỏ, đại diện một ngân hàng cổ phần khác cho biết không dễ để các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận từ nhóm khách hàng này. 

“Hiện giờ phần lớn các ngân hàng vẫn thích chính sách 'hớt váng' hơn, tức là tập trung vào khách hàng tốt, thu nhập cao, dễ thu hồi nợ, lợi nhuận đem về cho ngân hàng cũng ổn định”, vị đại diện này nói.

Hướng ra mới cho SMEs tiếp cận vốn vay

Theo ông Nguyễn Khánh Trình, CEO của Clever Ads (đối tác của Google tại Việt Nam), giải pháp đầu tiên mà các doanh nghiệp SMEs có thể sử dụng là huy động vốn từ bên ngoài, nhất là từ các quỹ đầu tư. Đây là nguồn vốn lớn và không phải lo lắng về việc trả lãi suất như đối với vốn vay ngân hàng.

Tuy nhiên, để huy động được nguồn lực này đòi hỏi các doanh nghiệp SMEs phải chứng minh được dự án và triển vọng tốt, đồng thời phải quảng bá được thương hiệu.

Giải pháp thứ hai là các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào xếp hạng tín nhiệm và hoạt động của doanh nghiệp để xem xét cho vay tín chấp.

Hiện một số ngân hàng đã dành ra những khoản vốn cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ vay tín chấp như Maritime Bank, VPBank, ABBANK, ACB... Tuy nhiên, mỗi tổ chức tín dụng có chính sách áp dụng khác nhau.

Tại ACB, sau khi đánh giá, phân loại khách hàng, xác minh tài chính, kế hoạch sử dụng vốn vay hợp lý... doanh nghiệp sẽ được vay tín chấp với lãi suất tùy theo thời điểm và tiềm lực của doanh nghiệp, độ rủi ro của từng khoản vay.

Ngân hàng ABBank cũng vừa ra mắt dịch vụ ngân hàng chuyên biệt cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME Banking) với các sản phẩm đóng gói cả cho vay tín chấp lẫn có tài sản đảm bảo. Mỗi sản phẩm được tinh chỉnh theo đặc thù của từng đối tượng doanh nghiệp như cho SMEs siêu nhỏ, mới khởi nghiệp hoặc tiền thân là hộ kinh doanh.

Phương thức cho vay mới của ABBank đã tối giản hồ sơ để thuận tiện hơn so với cấp tín dụng truyền thống như: tiêu chí cho vay đơn giản, thủ tục trong 22 giờ và phê duyệt trong vòng 5 tiếng khi khách hàng đủ hồ sơ. 

VPBank cũng giới thiệu với các doanh nghiệp về gói vay doanh nghiệp không tài sản thế chấp. Đây là gói vay mà VPBank cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chỉ dựa trên tín chấp, cấp tín dụng không tài sản đảm bảo cho doanh nghiệp có thời gian hoạt động dưới 1 năm (với điều kiện đi lên từ Hộ kinh doanh).

Theo ông Đào Gia Hưng, Phó giám đốc khối SMEs của VPBank, điểm mạnh của giải pháp này là VPBank đã chuẩn hóa bộ điều kiện cấp tín dụng để rút ngắn thời gian giải ngân cho khách hàng, phê duyệt căn cứ vào tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp hơn là vào hệ thống sổ sách, đa dạng hóa các hình thức cho vay bao gồm cả thấu chi và thẻ tín dụng doanh nghiệp.

Trước những quan ngại về tính rủi ro khi đẩy mạnh cho vay đối tượng doanh nghiệp nhỏ, ông Hưng cho biết, trong những năm qua, khi triển khai sản phẩm này, tỷ lệ rủi ro đều trong phạm vi kiểm soát, mỗi tháng số lượng doanh nghiệp SME tăng hơn 1.000 khách hàng.

Về những băn khoăn việc vay tín chấp lãi suất sẽ cao hơn, ông Hưng cho rằng, nếu so sánh giữa cho vay tín chấp và thế chấp thì đương nhiên mức lãi suất sẽ khác nhau.

“Chúng tôi dựa trên những đặc tính kinh doanh của mình, dựa trên độ rủi ro của từng loại hình, nhưng tôi đảm bảo với hình thức cho vay này lãi suất rất cạnh tranh và phù hợp với sự chịu đựng của khối doanh nghiệp này”, ông Hưng chia sẻ.