Leader talk

Động lực mới

Thu Phương Thứ năm, 30/01/2025 - 09:35

Khơi thông thể chế sẽ huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, mở ra không gian phát triển mới và tạo động lực cho tăng trưởng.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Ảnh: Hoàng Anh.


Trong suốt hàng chục năm nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm giấy phép con và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, chưa bao giờ TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, lại cảm thấy hứng khởi và tràn đầy niềm tin vào công cuộc cải cách thể chế sẽ mang lại những kết quả thiết thực như lúc này.

Tắc nghẽn kéo dài

Dưới góc nhìn của ông, thể chế được hiểu như thế nào và vì sao Tổng Bí thư Tô Lâm lại nhấn mạnh ‘thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn’ trong phát triển kinh tế khi phát biểu tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XV vừa qua? Những ‘điểm nghẽn thể chế’ cụ thể ấy là gì, thưa ông?”

TS. Nguyễn Đình Cung: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thể chế. Có ý kiến cho rằng thể chế là ‘luật chơi’, ‘sân chơi’ hay ‘cơ chế’ - những cách diễn đạt mang tính dân dã, dễ hiểu nhưng lại thiếu tính khái quát, dễ dẫn đến cách hiểu sai lệch và rối rắm.

Bỏ qua những góc nhìn khác nhau đó, cốt lõi của thể chế chính là hệ thống quy định pháp luật. Những quy tắc, quy định, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương đến địa phương là nền tảng căn bản của thể chế. 

Thể chế bao trùm mọi lĩnh vực của hoạt động kinh tế. Vì vậy, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, thể chế chính là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Tắc về thể chế sẽ dẫn đến tắc nghẽn tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế nói chung, từ hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, đến các nguồn lực cho phát triển, đổi mới sáng tạo.

Có thể hình dung cách nền kinh tế đang vận hành giống như các phương tiện đang tham gia giao thông trên đường cao tốc thì đột nhiên gặp trạm kiểm soát. Mọi phương tiện đều phải đi chậm lại, thậm chí dừng lại, chờ đợi được kiểm duyệt để đi qua, gây dồn toa, ách tắc kéo dài. 

Đây chính là những “điểm nghẽn” thực sự theo nghĩa đen.

Tương tự như câu chuyện về môi trường kinh doanh, khi hoạt động kinh doanh càng phát triển, càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp. Nhưng, cũng giống như các phương tiện giao thông trên tuyến đường kia, các ‘điểm nghẽn’ chính là rào cản, làm chậm lại sự phát triển của họ. 

Nguy hiểm hơn, trên “tuyến đường” đó, không chỉ có một điểm nghẽn. Những rào cản trong thể chế, hệ thống pháp luật không phải chỉ lẻ tẻ, mà là hàng nghìn, hàng chục nghìn rào cản. Các rào cản xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ trung ương đến địa phương, gây khó khăn, kìm hãm đà tăng trưởng của doanh nghiệp. 

Ví dụ rõ nhất hiện nay là hàng nghìn dự án trên khắp cả nước đang vướng quy định pháp lý chưa thể tháo gỡ. Tắc nghẽn ở dự án này sẽ kéo theo sự đình trệ của các dự án khác, hoạt động kinh doanh khác. Hệ quả là doanh nghiệp không có dòng tiền, không thể vận hành kinh doanh một cách bình thường, thậm chí nhiều doanh nghiệp đối mặt nguy cơ phá sản, rời khỏi thị trường. 

Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, ‘thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn’, có nghĩa là nếu chúng ta khơi thông được nút thắt thể chế, chắc chắn sẽ giải quyết được những nút thắt khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng.

Khơi thông thể chế sẽ giúp huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý hơn, kích thích đổi mới sáng tạo, mở ra cơ hội và không gian phát triển mới, tạo động lực và con đường mới để thúc đẩy tăng trưởng.

Là nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và đã từng tham gia vào công cuộc bãi bỏ giấy phép con đầy cam go, cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp, ông nhận thấy những khó khăn lớn nhất trong cải cách thể chế là gì?

TS. Nguyễn Đình Cung: Bên cạnh việc chỉ ra rằng điểm nghẽn thể chế là rào cản lớn đối với phát triển, trong bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rào cản lớn nhất của cải cách thể chế hiện nay chính là tư duy.

Đổi mới tư duy, thay đổi tư duy là điều khó nhất trong công cuộc cải cách thể chế. 

Quan trọng hơn, Tổng Bí thư cũng chỉ ra rằng, đổi mới tư duy không phải hô hào khẩu hiệu chung chung, mà là triệt để bãi bỏ tư tuy “không quản được thì cấm” trong xây dựng, cải cách và hoàn thiện thể chế. Nếu thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn thì đổi mới tư duy chính là vấn đề mấu chốt, ‘chốt của chốt’ để khơi thông điểm nghẽn thể chế này.

Trung tâm hành chính tập trung Đà Nẵng. Ảnh: Hoàng Anh.

Tư duy ‘không quản được thì cấm’ bắt nguồn từ việc các cơ quan quản lý nhà nước đặt ra nhiều rào cản để kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và người dân khi Việt Nam mới bước vào kinh tế thị trường. Tuy nhiên, lâu dần, việc quản lý để kiểm soát như vậy khiến cho quyền lực của cơ quan nhà nước tăng lên, gắn với cơ chế ‘xin – cho’, từ đó làm nảy sinh lợi ích cho chính họ. 

Càng về sau, tư duy này càng bị “biến tướng”, trở thành tư duy biến những rào cản, cấm đoán thành lợi ích của mình. Nó giống như những “lô cốt” chứa lợi ích rất lớn, rất khó phá bỏ. Nhiều quy định pháp luật đặt thêm các rào cản để kiểm soát hoạt động kinh doanh. Tư duy này cũng chính là lý do khiến trong suốt nhiều năm liền, hoạt động cắt bỏ giấy phép con, tháo gỡ các rào cản không mang lại hiệu quả rõ rệt. 

Hơn 20 năm qua, Việt Nam đã trải qua hai đợt cắt giảm giấy phép con: giai đoạn từ năm 1999, khi Luật Doanh nghiệp được ban hành, đến năm 2007 và giai đoạn 2014 - 2020. Đây là những thời kỳ Chính phủ thực hiện cải cách mạnh mẽ môi trường kinh doanh, tập trung tháo bỏ rào cản. 

Tuy nhiên, cái khó của những người tham gia cải cách là nhận ra việc làm này chưa mang lại kết quả bền vững.  Có thể bỏ được điều khoản này ở lúc này, nhưng lúc khác lại mọc lên điều khoản khác tương tự. 

Chính cách xây dựng luật pháp để quản lý, kiểm soát đã khiến việc xóa bỏ các điều kiện kinh doanh vấp phải rào cản rất lớn từ một số cơ quan quản lý nhà nước. Họ lấy lý do rằng “tôi phải quản, tôi không quản thì loạn” để giữ lại, thậm chí đặt thêm các rào cản, điều kiện kinh doanh. 

Trong suốt những năm tháng kiên trì đấu tranh cắt giảm điều kiện kinh doanh, điều gì khiến ông nhớ nhất? Đâu là những bài học ông cho rằng cần phải rút ra đối với công cuộc cải cách hiện tại?

TS. Nguyễn Đình Cung: Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất trong suốt những năm miệt mài cắt bỏ giấy phép con là lần cách đây nhiều năm, tôi và các cộng sự đã trình danh sách 6.000 điều kiện kinh doanh và kiến nghị bãi bỏ ít nhất một nửa trong số đó. Những điều kiện này đều là rào cản trái với nguyên tắc thị trường.

Tuy nhiên, khi quyết định chính thức được ban hành, trong văn bản cuối cùng lại xuất hiện cụm từ ‘bãi bỏ và đơn giản hóa’ ít nhất một nửa số điều kiện kinh doanh. Chỉ thêm vài từ thôi, nhưng bản chất của việc cắt giảm đã bị thay đổi hoàn toàn. Ở đây không phải là làm mất đi ít nhất một nửa số điều kiện kinh doanh, mà có thể chỉ là “đơn giản hoá”. 

Thế nào là đơn giản hoá? Có chín điều kiện, chỉ cần bỏ đi một điều kiện cũng là đơn giản hoá, hay gộp 1 - 2 điều kiện với nhau cũng là đơn giản hoá rồi. Việc “đơn giản hoá” này “nhẹ” hơn rất nhiều so với bãi bỏ. Chính vì vậy mà tác động của nó đến việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đã bị hạn chế đi rất nhiều. 

Đã có những cuộc tranh luận gay gắt trong những cuộc họp giữa bên khuyến nghị cải cách và bên bảo vệ những quy định cũ, không muốn thay đổi. Bên bảo vệ những quy định cũ luôn cho rằng, những điều kiện này, công cụ này là cần thiết để quản lý, không thể bỏ được. 

Trong không ít cuộc tranh luận tưởng như không có hồi kết, tôi đã đưa ra quan điểm rằng: “Nếu quy định này là tốt, rất tốt, vậy tại sao không thể thúc đẩy được sản xuất kinh doanh, không tạo bước đột phá cho tăng trưởng?” Nếu công cụ thực sự tốt, thì người thực hiện công cụ yếu kém. Giữa công cụ và người thực hiện, buộc phải có lựa chọn, công cụ ở lại, người phải ra đi. Còn người ở lại thì công cụ phải mất, vì công cụ này đã không còn phù hợp, kìm hãm sự phát triển.

Cần một “bước ngoặt” cho tăng trưởng

Thưa ông, những điểm nghẽn này đã tác động và kìm hãm nền kinh tế ra sao và chúng ta phải làm gì cho kỷ nguyên phát triển mới?

TS. Nguyễn Đình Cung: Nhìn vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể nhận thấy rất rõ sự phát triển bị kìm hãm như thế nào. Nếu như 10 năm đầu tiên sau cải cách, chúng ta tăng trưởng trung bình gần 8%/năm, 10 năm thứ hai sau cải cách còn dưới 7%/năm, thì 10 năm thứ ba chỉ còn 6%/năm,và 10 năm thứ tư này, nguy cơ không được trung bình 6%/năm.

Đà tăng trưởng rõ ràng đang giảm dần. So với các mục tiêu đã được văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra như đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, rõ ràng vẫn còn một khoảng cách rất xa.

Muốn đạt được mục tiêu này, theo kinh nghiệm từ các nước đã đi trước như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Trung Quốc, trong suốt thời gian dài 30 - 40 năm, tăng trưởng kinh tế phải liên tục đạt mức cao, từ 8 - 10%/năm.

Đây là điều mà chúng ta chưa bao giờ đạt được, chưa kể đến việc tăng trưởng kinh tế đang có dấu hiệu đi xuống như thời gian gần đây. Nếu điều này không sớm được thay đổi, mục tiêu mà Việt Nam hướng đến nhiều khả năng sẽ không thể đạt được.

 Nguyên nhân một phần là do thể chế, do tư duy ‘không quản được thì cấm’ đã tạo ra gánh nặng cho đổi mới, phát triển, kìm chân sự phát triển của các doanh nghiệp, kéo theo đó là sự tăng trưởng chậm lại của cả nền kinh tế.

Chỉ còn thời gian rất ngắn, năm năm nữa thôi là đến mốc 2030 và 20 năm nữa đến mốc 2045, để đạt được mục tiêu kỳ vọng, tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta cần một “bước ngoặt”, tăng trưởng bứt phá để đi lên tương đối dựng đứng mới có thể đuổi kịp với thế giới.

Và năm năm tới có lẽ chính là thời điểm cho bước ngoặt quan trọng đó, để chấm dứt thời kỳ tăng trưởng suy giảm. Đây là bước ngoặt buộc phải có nếu muốn đạt được mục tiêu như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. 

Để làm được điều đó, bắt buộc cần có sự thay đổi trong tư duy để cải cách thể chế với một hệ thống tư duy mới. Tư duy xây dựng pháp luật cần theo hướng không phải để quản lý, mà để thúc đẩy tăng trưởng, phá bỏ những rào cản để mở ra những cơ hội tăng trưởng mới. Đây là điều căn bản cần phải có, nếu muốn tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bài học từ quá khứ cho thấy, việc cải cách thể chế kinh tế theo hướng đổi mới tư duy như công cuộc Đổi Mới năm 1986 đã mang lại rất nhiều thành tựu. 

Thưa ông, công cuộc Đổi Mới đã để lại những bài học kinh nghiệm gì có thể áp dụng cho việc cải cách thể chế trong bối cảnh hiện nay?

TS. Nguyễn Đình Cung: Nhìn lại cuộc đổi mới năm 1986, công cuộc cải cách thể chế chủ yếu tập trung vào hai vấn đề chính: một là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường; và hai là hội nhập kinh tế quốc tế.

Đằng sau cuộc cải cách thành công, tạo ra bước ngoặt cho sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1986 - 1995, chính là sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy. Từ tư duy của một nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung với các thể chế đặc trưng, Việt Nam đã chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới. Trên nền tảng đó, chúng ta đã loại bỏ những quy định, luật lệ và quy trình mang tính chất đặc thù của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển. 

Một ví dụ rõ ràng là trước đây, nhà nước quản lý giá cả trong suốt một thời gian dài, gây ra lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường, việc quản lý giá đã được gỡ bỏ và giá cả được để cho thị trường tự do quyết định.

Chúng ta cũng đã rất mạnh dạn trong việc cải cách doanh nghiệp nhà nước, dứt khoát loại bỏ hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là những ví dụ cho thấy những thay đổi rất lớn trong tư duy, sự đổi mới mạnh mẽ, dứt khoát, dám bãi bỏ những thể chế đã không còn phù hợp, phá bỏ những rào cản cho sự phát triển. 

Thị trường, thị trường và thị trường hơn!

Trong bối cảnh nền kinh tế đã thay đổi, cải cách thể chế, hay “cuộc đổi mới lần thứ hai” hiện nay cần phải làm gì để có thể tạo ra những bước ngoặt cho tăng trưởng, thưa ông?

TS. Nguyễn Đình Cung: Trong bối cảnh hiện nay, công cuộc cải cách thể chế thực chất vẫn là chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế thị trường. Cuộc đổi mới lần này không ngoài gì khác là “thị trường, thị trường và thị trường hơn”.

Nhiều người sẽ đặt câu hỏi, “Thị trường này là gì, ở đâu?” bởi từ khi đổi mới năm 1986, Việt Nam đã chuyển sang kinh tế thị trường rồi. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, thực chất, chúng ta mới phát triển được thị trường hàng hoá và dịch vụ.

Còn một loại thị trường khác, căn bản hơn nhiều vẫn chưa được phát triển đúng mức là thị trường phân bổ nguồn lực, thị trường của nhân tố sản xuất. Điều này đã được nghị quyết của Đảng nhắc đến lần đầu tiên cách đây gần 10 năm, song đến thời điểm hiện tại vẫn chưa thực hiện được.

Cần đẩy mạnh tháo bỏ các rào cản để thúc đẩy tăng trưởng. Ảnh: Hoàng Anh.

Còn nhớ, tại Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011, đột phá thể chế được nhấn mạnh với trọng tâm là cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính. Đến Đại hội XII năm 2016, khi nói đến đột phá thể chế, trọng tâm được nhấn mạnh là phát triển các loại thị trường nhân tố sản xuất, để các thị trường này đóng vai trò chủ yếu trong huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phục vụ tăng trưởng kinh tế. 

Các nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 21 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa 12 cũng nhấn mạnh một số giải pháp, chủ trương lớn về tiếp tục loại hình, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, đến nay, mọi việc dường như vẫn chưa có nhiều tiến triển. Như đã phân tích ở trên, việc thực hiện những đột phá thể chế này là cực kỳ khó, bởi nó gắn chặt với tư duy xây dựng pháp luật ‘không quản được thì cấm’, nơi khu trú của cơ chế xin cho. 

Cuộc cải cách thể chế lần này sẽ khó hơn rất nhiều so với trước đó, bởi nó đụng chạm rất mạnh đến quyền lực và quyền lợi. Sẽ có một bộ phận những người “được lợi” ở cơ chế cũ chống đối, chần chừ không làm, làm chậm lại quá trình cải cách.

Trong khi đó, nếu muốn thay đổi thể chế này, sẽ buộc phải thay đổi vai trò của nhà nước và thị trường. Nhà nước phải rút lui để cho thị trường vào phân bổ nguồn lực. Nhà nước phải thúc đẩy, hỗ trợ, tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế, không phải kìm hãm xin - cho trong phân bổ nguồn lực.

Ở đó, chúng ta phải phát triển theo chiều ngang của thị trường, nơi người mua và người bán giao dịch tự do. Nhà nước không can thiệp hoặc can thiệp rất ít vào thị trường, trừ khi thị trường thất bại.

Thị trường, thị trường và thị trường hơn là bản chất, cũng là mục tiêu cần đạt được của cuộc đổi mới lần thứ hai này. Chúng ta phải nhìn sâu vào bản chất đó, để cải cách thể chế phù hợp và đi đúng hướng. 

Trước những thách thức rất lớn như ông vừa đề cập, theo ông, bây giờ cần làm gì và làm như thế nào để bắt tay vào công cuộc cải cách thể chế thành công?

TS. Nguyễn Đình Cung: Đây là vấn đề không đơn giản, cần đồng bộ các giải pháp tổng thể, quyết liệt và thực sự đổi mới một cách triệt để.

Trước mắt, như cách Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và đang thực hiện, chúng ta đang bắt đầu các công việc cải cách từ cấp thiết, trước mắt đến căn bản, lâu dài. Trước hết là cải cách hệ thống các cơ quan đang nắm giữ nhiều cơ chế xin - cho. Hiện Chính phủ đang thực hiện rất mạnh mẽ công tác tinh gọn, cải cách bộ máy nhà nước, sáp nhập các cơ quan đơn vị từ trung ương đến địa phương để hoạt động hiệu quả, tiết kiệm.

Việc thứ hai cần làm là lấy lại niềm tin cho công chức trong bộ máy các cơ quan quản lý để họ dám nghĩ, dám làm. Hiện nay, một bộ phận công chức đang sợ trách nhiệm, đùn đẩy, không chịu xử lý công việc. Nếu như trước đây, vấn đề đó ở bộ phận này, cấp địa phương này có thể giải quyết được, thì nay, vì né tránh, họ phải đi hỏi, xin ý kiến rất nhiều cơ quan. Nhiều vấn đề rất nhỏ nhưng địa phương không xử lý được phải hỏi lên tận trung ương. 

Nhiều cán bộ trong bộ máy quản lý không làm đúng phận sự, trách nhiệm của mình, khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ách tắc, trì trệ.

Muốn thay đổi được điều đó, trước hết cần có cơ chế để bảo vệ họ, bảo vệ những người làm việc không tư lợi, làm vì sự phát triển chung, luôn tìm giải pháp tốt nhất để thực hiện công việc nhằm hướng đến hiệu quả công việc, chứ không tập trung vào quy trình, quy định. Công trạng của người làm việc trong bộ máy cần được đánh giá bằng kết quả công việc.

Chỉ khi đó mới có thể phá tan “băng giá” trong bộ máy quản lý nhà nước, khơi dậy ở họ khát khao làm việc, khiến họ tự hào vì sự đóng góp của mình với đất nước và mong muốn cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của xã hội.

Thứ ba, chúng ta phải lấy lại niềm tin, khát khao phát triển của giới kinh doanh, doanh nghiệp. Tôi cảm nhận rõ một bầu không khí nặng nề, trì trệ trong đội ngũ doanh nhân vài năm trở lại đây. Doanh nghiệp đứng yên có nghĩa là cả nền kinh tế đang đi lùi. Tài sản, vốn liếng của họ đang bị hao mòn mạnh mẽ trong thời gian chờ đợi các thủ tục, dự án bị ách tắc. Chỉ khi doanh nghiệp phát triển, nền kinh tế mới có thể tăng trưởng đi lên.

Trước hết, hàng nghìn dự án đang vướng mắc pháp lý khắp chiều dài đất nước, trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội cần được tháo gỡ càng nhanh càng tốt. Đây là việc làm hoàn toàn trong tầm tay của Chính phủ. Việc cần làm là liệt kê ra hàng loạt các rào cản, các vướng mắc của các dự án mà doanh nghiệp đang kiến nghị và giải quyết từng vướng mắc một cách triệt để. Tôi tin rằng, nếu đủ quyết tâm tháo gỡ, chỉ 3 - 6 tháng, các vướng mắc này sẽ được khơi thông. 

Khi những nút thắt lớn được gỡ bỏ, các doanh nghiệp mới có thể phát triển, sự hứng khởi mới lan rộng trong cộng đồng doanh nghiệp, tạo động lực cho kinh tế đất nước bứt phá.

Bên cạnh đó, những thay đổi nhỏ nhưng có tác động sâu rộng, như việc bỏ cấm xuất cảnh đối với những người đại diện pháp luật của các doanh nghiệp đang nợ thuế, có thể tạo ra một hiệu ứng tâm lý vô cùng lớn. Điều này không chỉ giúp kích thích sự hứng khởi của giới doanh nhân và những người làm kinh doanh, mà còn lan tỏa niềm tin, cảm hứng và khát khao phát triển mạnh mẽ trong toàn xã hội. Từ đó, tạo ra một động lực mới để nền kinh tế trở nên sôi động trở lại, từng bước tiến vào kỷ nguyên mới.

Đó là những vấn đề cấp thiết, trước mắt, còn đối với những giải pháp căn cơ, lâu dài của cải cách thể chế như ông đã nhấn mạnh là điểm cốt lõi của cải cách thể chế chính là hệ thống quy định pháp luật, cần có những sự đổi mới gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Đình Cung: Để cải cách thể chế, rõ ràng, chúng ta phải triệt để bỏ đi tư duy ‘không quản được thì cấm’ trong xây dựng pháp luật.

Trong bối cảnh Việt Nam đang muốn tiến mạnh mẽ vào cuộc cách mạng 4.0, chuyển đổi số, để chớp thời cơ mới cho sự phát triển, việc xây dựng pháp luật cần làm sao nuôi dưỡng, khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Các doanh nghiệp, người dân làm kinh doanh có hàng nghìn, hàng vạn cách để đạt mục tiêu. Cách xây dựng hệ thống quy định pháp luật mới cần phải thiết kế luật lệ theo hướng đặt mục tiêu và hỗ trợ, kiến tạo để người dân, doanh nghiệp đạt được mục tiêu đó.

Muốn làm như thế, trước hết, chúng ta phải bỏ luật để tránh chồng chéo, trùng nhau, đặc biệt là các luật chuyên ngành về bản chất là tạo thêm rào cản, công cụ quản lý cho các bộ. Chúng ta phải mạnh dạn tháo bỏ các rào cản, dám bỏ những luật, quy trình, quy định không đúng với tư duy ‘lập pháp thúc đẩy sự tăng trưởng’.

Tư duy cải cách thể chế cũng cần thay đổi. Trước đây, chúng ta hay nhắc đến việc tháo bỏ các rào cản, cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng có lẽ, trong bối cảnh hiện nay, cần tiến thêm một bước nữa. Tư duy ban hành luật pháp để quản cần thay bằng tư duy không chỉ tháo bỏ rào cản, mà phải tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo không gian mới, cơ hội mới, con đường mới cho tăng trưởng.

Chỉ những cải cách mạnh mẽ đó mới đủ sức mạnh để tạo ra bước ngoặt đối với sự phát triển của nền kinh tế. 

Nhưng ai sẽ là người đứng ra phá bỏ các rào cản này, liệu giao cho các cơ quan quản lý tự bỏ bớt các luật, vốn là công cụ quản lý của mình có khả thi, thưa ông?

TS. Nguyễn Đình Cung: Nếu chỉ dựa vào bộ máy nhà nước để cải cách hệ thống quy định pháp luật, nhiều khả năng sẽ không thành công. Nếu xây dựng pháp luật vẫn theo lối cũ là bên dưới đề xuất lên trên, ký nháy, xin ý kiến từ địa phương đến trung ương, từ các sở đến các cơ quan bộ ngành, thì bản chất vẫn là giữ quyền lực ở lại, hành vi bị động lực lợi ích chi phối.

Thay vào đó, Chính phủ cần có đội ngũ các tổ chức nghiên cứu, tư vấn, phản biện độc lập thực sự mạnh. Nhóm tổ chức tư vấn này và các bộ ngành cùng xây dựng đề án cải cách hệ thống quy định pháp luật song song, sau đó cùng trình bày, phản biện để tìm ra phương án tốt nhất cho sự phát triển của đất nước.

Cải cách thể chế không phải là vấn đề mới mẻ, nó đã được đặt ra từ lâu, nhưng đến nay vẫn chưa có bước tiến mạnh mẽ? Ông có niềm tin vào quyết tâm cải cách thể chế lần này?

TS. Nguyễn Đình Cung: Nếu nhìn vào chặng đường từ công cuộc đổi mới lần thứ nhất đến nay, đúng là trong suốt một khoảng thời gian dài, chúng ta chưa có những bước tiến rõ rệt trong cải cách thể chế.

Tuy nhiên, có thể thấy, Tổng Bí thư Tô Lâm đã thấy được vấn đề điểm nghẽn thể chế và tính cấp thiết của việc cải cách thể chế từ rất lâu rồi. Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh đến việc cải cách thể chế một cách mạnh mẽ, quyết liệt, kiên quyết loại bỏ tư duy ‘không quản được thì cấm’, xây dựng luật pháp không chỉ để quản lý mà quan trọng hơn là phải thúc đẩy phát triển, mở rộng không gian và cơ hội phát triển, tìm kiếm những con đường mới cho tăng trưởng.

Là người làm cải cách môi trường kinh doanh nhiều năm qua, những chỉ đạo của Tổng Bí thư thực sự khác biệt, khiến tôi vô cùng tâm đắc, như thể mình vừa được giải thoát khỏi một điều gì đó đè nặng, vốn âm ỉ, đau đáu trong lòng bấy lâu nay chưa được thực hiện.

Sự mạnh mẽ, quyết liệt của Tổng Bí thư khiến tôi thực sự tin rằng chúng ta sẽ làm được, sẽ thành công! Trong những lần cải cách trước đây, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải cũng mạnh mẽ, quyết liệt, có những quyết sách đủ mạnh, đủ táo bạo để tạo bước ngoặt cho phát triển.

Điều quan trọng hơn, sự thấu hiểu sâu sắc về đổi mới tư duy trong cải cách thể chế, như Tổng Bí thư đã nhấn mạnh, càng làm tôi thêm tin tưởng và hy vọng vào sự thay đổi tích cực trong tương lai, với công cuộc cải cách sắp tới sẽ đạt được những thành tựu căn bản hơn nhiều so với trước đây.

Xin cảm ơn ông.

Bài viết nằm trong Đặc san Nhà Quản Trị Xuân Ất Tỵ 2025, xuất bản tháng 1/2025.
Đặc san dày 168 trang, khổ 23x29cm, giá bán 150.000 đồng.
Để đặt mua Đặc san, xin liên hệ Tạp chí điện tử Nhà Quản Trị - TheLEADER.
Tòa soạn
Tầng 7, tòa nhà HCMCC số 249A Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội
Điện thoại: (024) 3244 4359
Văn phòng đại diện TP.HCM
Lầu 2, tòa nhà VNO, số 29 Huỳnh Văn Bánh, phường 17, quận Phú Nhuận, TP.HCM
Điện thoại: (08) 8670 8817

Cải cách thể chế để tăng trưởng hai con số

Cải cách thể chế để tăng trưởng hai con số

Tiêu điểm -  2 tuần
Cải cách thể chế theo hướng tạo thuận lợi cho dòng vốn chảy vào nền kinh tế là giải pháp đảm bảo mục tiêu tăng trưởng hai con số.
Cải cách thể chế để tăng trưởng hai con số

Cải cách thể chế để tăng trưởng hai con số

Tiêu điểm -  2 tuần
Cải cách thể chế theo hướng tạo thuận lợi cho dòng vốn chảy vào nền kinh tế là giải pháp đảm bảo mục tiêu tăng trưởng hai con số.
Đổi mới từ tư duy đến hành động để tháo gỡ nút thắt thể chế

Đổi mới từ tư duy đến hành động để tháo gỡ nút thắt thể chế

Leader talk -  1 tháng

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh những đổi mới hoạt động của Quốc hội nhằm tháo gỡ những nút thắt thể chế, trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18/NQ-TW tổ chức mới đây.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Sớm tháo gỡ 'điểm nghẽn' thể chế

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Sớm tháo gỡ 'điểm nghẽn' thể chế

Leader talk -  3 tháng

Trong ba 'điểm nghẽn' lớn nhất hiện nay gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế chính là 'điểm nghẽn' của 'điểm nghẽn', Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh.

Hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư của Quảng Ninh

Hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư của Quảng Ninh

Tiêu điểm -  5 tháng

Nằm tại vị trí chiến lược của cửa ngõ phía Bắc, Quảng Ninh đang tích cực kiến tạo nền tảng kinh tế vững mạnh với mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế trọng điểm phía Bắc.

Giữ lửa cải cách

Giữ lửa cải cách

Leader talk -  12 giờ

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao đổi về những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và những điểm nghẽn cần tiếp tục tháo gỡ.

Việt Nam có phải là một ngôi sao đang lên?

Việt Nam có phải là một ngôi sao đang lên?

Leader talk -  1 ngày

Việt Nam cần phải vượt ra ngoài cái gọi là “con rồng kinh tế”, vì nếu là một “con rồng kinh tế” thôi sẽ không đủ để vượt qua thách thức lớn nhất phải đối mặt, đó là thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Thời khắc bùng nổ

Thời khắc bùng nổ

Leader talk -  1 ngày

Cải cách đột phá có thể giúp các yếu tố thuận lợi đồng loạt hội tụ, hứa hẹn mở ra khả năng tạo nên bước nhảy vọt về vị thế quốc gia và hiện thực hoá tầm nhìn chiến lược dài hạn.

Khẳng định vị thế trên bản đồ du lịch thế giới

Khẳng định vị thế trên bản đồ du lịch thế giới

Leader talk -  1 ngày

Để trở thành cường quốc du lịch châu Á, Việt Nam cần nhìn xa hơn các con số hiện tại, đầu tư bài bản vào chất lượng sản phẩm và dịch vụ, và dám đặt ra những mục tiêu táo bạo.

Phát huy sức mạnh mềm của quốc gia

Phát huy sức mạnh mềm của quốc gia

Leader talk -  2 ngày

Thương hiệu quốc gia Việt Nam phụ thuộc vào cách chúng ta kể câu chuyện của chính mình - một câu chuyện thương hiệu đầy bản sắc, đậm tính nhân văn và hướng tới tương lai bền vững.

Ngân vang chèo Thái Bình

Ngân vang chèo Thái Bình

Tiêu điểm -  12 giờ

Giữa nhịp sống hiện đại, nghệ thuật chèo Thái Bình kiên cường giữ gìn giá trị truyền thống, vượt qua khó khăn để khẳng định vị thế văn hóa dân tộc.

Giữ lửa cải cách

Giữ lửa cải cách

Leader talk -  12 giờ

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao đổi về những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và những điểm nghẽn cần tiếp tục tháo gỡ.

Động lực mới

Động lực mới

Leader talk -  12 giờ

Khơi thông thể chế sẽ huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, mở ra không gian phát triển mới và tạo động lực cho tăng trưởng.

Đánh thức hồn gốm Chu Đậu

Đánh thức hồn gốm Chu Đậu

Ống kính -  12 giờ

Sự hồi sinh của gốm Chu Đậu là mảnh ghép quan trọng với văn hóa và lịch sử Việt Nam, là bài học về phục hồi và phát triển nghề truyền thống đã thất truyền.

Chủ tịch FinPeace: Chứng khoán Việt Nam đón chặng về đích?

Chủ tịch FinPeace: Chứng khoán Việt Nam đón chặng về đích?

Tài chính -  13 giờ

Ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch FinPeace tin rằng, chứng khoán Việt Nam đang dần bước sang "mùa mới", cùng mức nền mới, trước ngưỡng cửa nâng hạng trong năm 2025.

Nữ doanh nhân giữ cầu nối Việt Nam - Trung Đông

Nữ doanh nhân giữ cầu nối Việt Nam - Trung Đông

Nhịp cầu kinh doanh -  13 giờ

Vượt qua định kiến văn hóa và xây dựng thương hiệu uy tín, CEO Nguyễn Thị Việt Bình và Công ty Du lịch Desert Harbour đã trở thành cầu nối bền vững giữa Việt Nam và Trung Đông.

Khoảnh khắc đêm giao thừa rực rỡ tại Mailand Hanoi City

Khoảnh khắc đêm giao thừa rực rỡ tại Mailand Hanoi City

Ống kính -  15 giờ

Lần thứ 2 liên tiếp, Mailand Hanoi City tiếp tục được thành phố Hà Nội chọn làm điểm bắn pháo hoa đầy màu sắc trong khoảnh khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.