Leader talk
GS. Trần Văn Thọ: Tài sản vô hình quyết định năng lực cạnh tranh
Yếu tố quyết định năng suất lao động nói riêng và năng lực cạnh tranh nói chung của quốc gia cũng như doanh nghiệp là tài sản vô hình, đặc biệt là nguồn nhân lực mới.
Bài học từ Nhật Bản
Kinh tế Nhật Bản trải qua giai đoạn phát triển thần kỳ (1955 - 1973) và giai đoạn củng cố vị trí cường quốc công nghiệp nhờ phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực trong thời đại cách mạng công nghệ 2.0 và 3.0. Nhưng nền kinh tế này bắt đầu suy thoái từ thập niên 1990 vì không đối phó hữu hiệu với trào lưu mới của cách mạng 4.0.
Thống kê của World Development Indicators Database về tăng trưởng kinh tế của 5 nước tiên tiến trong vòng 30 năm trước khi có đại dịch Covid-19 cho thấy, trong khi các nước khác đều ghi nhận tăng trưởng GDP khả quan (Mỹ 2,47%, Anh 2%, Đức 1,49%, Pháp 1,57%), thì GDP của Nhật chỉ tăng trưởng 0,96%.
"Một trong những nguyên nhân chính là tỉ lệ đầu tư vào tài sản vô hình/GDP của Nhật Bản thấp hơn các nước còn lại", ông Trần Văn Thọ, Giáo sư danh dự tại Đại học Waseda (Tokyo, Nhật Bản) chia sẻ trong sự kiện “Nhân sự số, năng lực nào thúc doanh nghiệp tăng trưởng” được Le & Associates kết hợp cùng Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức.
Giai đoạn 2005-2012, tỉ lệ đầu tư vào tài sản vô hình của Nhật chỉ chiếm 8,2% GDP, trong khi tỉ lệ này ở Hoa kỳ là 16,1%, Anh là 13,8%, Pháp là 15,9% và Đức 9,7%. Tỉ lệ đầu tư vào nguồn nhân lực đặc thù của Nhật Bản cũng ít hơn các nước còn lại.
Tài sản vô hình, theo lý giải của giáo sư Thọ là: tài sản đẩy mạnh cách tân công nghệ như R&D, khả năng thiết kế; tài sản có thể thông tin hoá như phần mềm, cơ sở dữ liệu; tài sản tổng hợp như năng lực quản lý, tổ chức và nguồn nhân lực mới… Trong tài sản vô hình, Nhật Bản đặc biệt yếu về nguồn nhân lực đặc thù.

Cần một con đường bền vững hơn
Ở châu Á, Ấn Độ đã vươn mình vượt qua Vương quốc Anh và chính thức trở thành nền kinh tế lớn thứ năm thế giới vào năm ngoái. Quốc gia này cũng được dự báo là sẽ “soán” vị trí thứ ba của Nhật Bản chỉ trong vài năm tới.
Cách đó 3.194km, Việt Nam – một nước thu nhập trung bình thấp chưa hoàn thành cách mạng công nghệ 3.0 đã phải trực diện với cách mạng công nghệ 4.0 và các trào lưu khác cũng đang đặt ra những mục tiêu về một nước thu nhập trung bình cao trước 2030 và thu nhập cao vào 2045, về việc gia tăng vị trí của nền kinh tế so với toàn cầu, về hình ảnh của một con rồng châu Á mới.
Theo đánh giá của GS. Trần Văn Thọ, Việt Nam có nhiều tiềm năng để làm được điều đó, từ lợi thế sẵn có như dân số 100 triệu người, ngôn ngữ và văn hoá có sự thống nhất, không có mâu thuẫn về sắc tộc và tôn giáo, vị trí địa lý thuận lợi…cho đến cơ hội phát triển ở vị trí của một nước “trung lập” trong cuộc chiến thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu, Việt Nam phải liên tục tăng năng suất và năng lực cạnh tranh trong thời đại mới.
Năng suất của Việt Nam hiện nay chỉ bằng 15% năng suất của Nhật Bản và bằng năng suất của Nhật Bản vào năm 1960, vẫn thấp hơn Philippines, Indonesia, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Mailaysia, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore. Năng suất phải tăng cao hơn các nước khác thì vị trí nền kinh tế mới cao hơn được.
Nhìn suốt chiều dài lịch sử, năng suất lao động của Việt Nam chỉ mới tăng mạnh trong khoảng hơn nửa thập kỷ qua. Từ 2015 - 2020, Việt Nam có mức tăng mạnh nhất châu Á với 5,2%, nhưng chủ yếu nhờ có sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ - con đường chung của các nước đi sau về kinh tế. Như vậy, Việt Nam sẽ cần có cách làm mới hiệu quả và bền vững hơn.

Đầu tư cho tài sản vô hình là tất yếu để kinh tế vươn lên
Nhìn trên bình diện quốc gia, ông Thọ cho rằng, cần thúc đẩy công nghiệp hoá theo chiều sâu để tăng hàm lượng giá trị gia tăng của mỗi sản phẩm công nghiệp, cần thực hiện những sự huỷ diệt mang tính sáng tạo (creative destruction) để đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và xoá bỏ những thứ lạc hậu. Thời đại 4.0 với các trụ cột như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật và tự động hoá ngày càng ảnh hưởng đến năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, thậm chí tạo nên những bước nhảy vọt cho doanh nghiệp.
Cũng nhờ công nghệ 4.0 mà sự phân ly giữa công nghiệp và dịch vụ dần bị xoá bỏ. Công nghiệp hoá phải đi đôi với dịch vụ. Dịch vụ hóa sản phẩm công nghiệp trở nên quan trọng, chính phần mềm là dịch vụ khiến cho phần cứng được sản xuất ra trở nên khác biệt.
Ông Thọ lấy ví dụ, tỷ lệ phần mềm trong giá thành một chiếc ô tô năm 1950 chỉ 10% nhưng đến nay đã tăng đến 40% và Nikkei Shimbun dự báo sẽ tăng lên gần 58% vào năm 2030. Mặc dù ô tô là một ngành đặc biệt khi tỉ lệ phần mềm trong giá thành cao, nhưng các ngành khác cũng trong xu thế tương tự.
Đặc biệt, khu vực phi chính thức Việt Nam quá lớn, lao động nông nghiệp còn quá nhiều. Vị giáo sư cho rằng, Việt Nam cần phá vỡ cơ cấu trúc đó với việc chính thức hoá khu vực kinh tế ngoài nhà nước hiện đang chiếm tỷ trọng rất lớn để tạo điều kiện cho năng suất cao lên, từ đó, áp dụng các chính sách hỗ trợ, nuôi dưỡng để doanh nghiệp lớn mạnh và thực hiện đổi mới sáng tạo.
“Tất nhiên nhiều cơ sở vẫn muốn ở khu vực phi chính thức, nên đó là câu chuyện dài, cần có nghệ thuật, chính sách để chuyển hoá họ thành các doanh nghiệp lớn hơn thì mới có đổi mới sáng tạo”, ông Thọ nói.

Việc tăng cường giáo dục, đào tạo trong thời đại kỹ thuật số, tổ chức các cơ sở tái đào tạo kỹ năng cho người lao động cũng được ông Thọ nhấn mạnh như một giải pháp đầu tư vào nguồn nhân lực mới.
“Nhân lực Việt Nam có cơ cấu hai tầng. Tầng ở trên rất giỏi và năng động nhưng tỷ lệ còn thấp. Trong khi đó, điều tra mới nhất của JICA cho thấy hơn 60% lao động của Việt Nam chưa học hết lớp 9. Do đó, Nhà nước cần chú trọng hơn vào giáo dục và đào tạo để phần lớn đó ở tầng dưới vươn lên thì mới cạnh tranh được”, ông Thọ nói.
Còn từ bình diện doanh nghiệp, ông Thọ nhấn mạnh ba chìa khoá trong chiến lược tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là: đầu tư vào tài sản vô hình và đổi mới sáng tạo; xây dựng nhân tài gắn với doanh nghiệp riêng, nhân tài thích ứng cho từng doanh nghiệp; bổ sung nguồn lực kinh doanh.
Dù Nhật Bản đối mặt với tình trạng suy thoái nhưng không ít doanh nghiệp Nhật Bản vẫn rất thành công như Hitachi, Sony, Itochu, Ricoh… nhờ có chiến lược thích ứng. Họ tăng cường tài sản vô hình, nhất là xây dựng nguồn nhân lực mới, đặc thù thuộc từng doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, họ thực hiện đổi mới sáng tạo, kết nối vạn vật trong sản xuất, kinh doanh. Nhiều công ty vừa và nhỏ cũng thành công trong đổi mới sáng tạo với công nghệ 4.0 trước những cơ hội mới của thị trường.
Trong đó, Hitachi là công ty có 36 vạn nhân viên. Từ 2011, họ đẩy mạnh cách tân công nghệ mà tiền đề là nguồn nhân lực mới. Công ty tiến hành lập cơ sở dữ liệu của 25 vạn nhân tài toàn cầu, trong đó 500 người thuộc top thế giới để có kế hoạch thu hút nhân tài, đồng thời thiết lập hệ thống đào tạo đặc thù cho nhân lực. Đầu năm 2021, Hitachi đã đào tạo, thu hút 35.000 chuyên gia kỹ thuật số, trong đó, số kỹ sư dữ liệu lên tới 3.000 người.
Khi có nguồn nhân lực mới, công ty này tiến hành kết nối vạn vật các cơ sở sản xuất và quản lý. Kết quả là giảm 20% phí tổn trong công trình thiết kế, giảm 20% trong điều động vật tư, giảm 10% trong chế tạo và giảm 50% thời gian sản xuất sản phẩm. Giá cổ phiếu của công ty cũng tăng dần qua các năm, tăng gần gấp hai trong giai đoạn 2010 – 2020. Chỉ trong 3 năm qua, giá cổ phiếu của hãng cũng tăng gần gấp hai, từ 4.000 Yên (năm 2020) lên hơn 7.200 Yên (tháng 3/2023).
GS. Trần Văn Thọ: 'Doanh nghiệp nhà nước lãng phí quá nhiều trong 10 năm qua'
Thách thức mục tiêu tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%
Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2021 - 2025 trên 6,5% là mục tiêu thách thức của Chính phủ. Trong đó, năm 2021 đã tăng khiêm tốn 4,71% do Covid-19, nên 4 năm tiếp theo cần sự đột phá mạnh mẽ để đạt mức tăng bình quân lịch sử trên 6,95%.
Nâng cao năng suất lao động để không bỏ lỡ cơ hội cất cánh
Việt Nam dường như đang đi theo con đường phát triển giống một số quốc gia ASEAN, mất tới 40 – 60 năm để thoát khỏi mức thu nhập trung bình. Để đạt được mục tiêu 2045 đầy tham vọng, cần có những chuyển biến mang tính đột phá.
Năng suất lao động phản ánh thất bại trong chính sách thu hút FDI
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được kỳ vọng sẽ đem tới công nghệ, quy trình quản lý, kinh nghiệm hoạt động cũng như đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, góp phần nâng cao năng suất. Tuy nhiên, điều ngược lại đang xảy ra trong thực tế.
'Tăng giờ làm thêm không giúp tăng năng suất lao động'
Về đề xuất tăng thời gian làm thêm tối đa từ 300 giờ/ năm lên 400 giờ/năm, theo ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Thành ủy TP. HCM, trong ngắn hạn thì người chủ sử dụng lao động có thêm lợi ích, người lao động có thêm tiền nhưng về lâu dài, năng suất lao động không tăng.
Doanh nhân đứng lớp
Mỗi bài học người doanh nhân mang theo là một lát cắt đời sống, một nhịp đập của thời cuộc và một niềm tin rằng giáo dục phải đánh thức được khát vọng, lý tưởng và tinh thần khai mở nơi mỗi con người.
Vươn mình bằng chiều sâu văn hóa
Để trỗi dậy mạnh mẽ và vươn mình bền vững, Việt Nam ta cần có một thế hệ doanh nhân có chiều sâu văn hóa, tính nhân bản và tinh thần ái quốc.
Chính quyền phục vụ sẽ không còn là khẩu hiệu
Những thay đổi có tính cách mạng liên quan đến tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và các đơn vị hành chính là bước chuyển chiến lược để hướng đến nền quản trị quốc gia hiện đại, với chính quyền kiến tạo phát triển, phục vụ nhân dân, và phụng sự đất nước.
Bước ra thế giới trong kỷ nguyên mới
Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ trao đổi về công tác ngoại giao trong Kỷ nguyên mới cũng như tính cấp thiết của Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
CEO Bình Điền Ngô Văn Đông: Tôi muốn “mùa vàng” cho nông dân
Dù đang giữ vị trí Tổng giám đốc Công ty CP Phân bón Bình Điền, ông Ngô Văn Đông vẫn không ngần ngại cùng đội ngũ kỹ sư trực tiếp đến từng chân ruộng, rẫy cà phê, hồ tiêu trên khắp cả nước trực tiếp kiểm tra, giám sát hiệu quả của sản phẩm phân bón Đầu Trâu. Đây không chỉ là những chuyến đi thực địa, đó còn là hành trình đồng hành cùng nông dân và sự chuyển mình của nông nghiệp Việt Nam.
Tại sao Thế Giới Di Động muốn IPO riêng các chuỗi điện thoại, điện máy, bách hóa?
Đằng sau câu chuyện "tái sinh" Thế Giới Di Động là tham vọng mô hình tập đoàn bán lẻ đã được Chủ tịch Nguyễn Đức Tài ấp ủ từ những ngày đầu.
Anh hùng lao động Thái Hương được vinh danh trong dịp đặc biệt của đất nước
Tại Trung tâm Hội nghị quốc tế (Hà Nội), Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 24/8 đã tổ chức hội nghị gặp mặt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước với đại biểu tiêu biểu đại diện các tầng lớp nhân dân tham dự Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9.
Lãng phí hàng triệu m2 đất vàng
Hà Nội đang rốt ráo xử lý các dự án vốn ngoài ngân sách chậm triển khai nhiều năm, hứa hẹn tạo chất lượng mới cho bất động sản Thủ đô.
Quảng Ninh phát huy vai trò Đảng trong doanh nghiệp
Những chi bộ mạnh đã trở thành chỗ dựa để doanh nghiệp ở Quảng Ninh phát triển ổn định, thích ứng với thị trường và tạo giá trị lâu dài.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước gặp mặt đại biểu tiêu biểu đại diện các tầng lớp nhân dân
Sáng 24/8, tại Hà Nội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức Hội nghị gặp mặt đại biểu tiêu biểu đại diện các tầng lớp Nhân dân nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng tám và Quốc khánh 2/9.
Đếm ngược 8Wonder: Người hâm mộ 'ôm rào' từ 5h sáng, dàn siêu sao sẵn sàng cháy hết mình
Hàng chục ngàn khán giả đếm ngược chờ sân khấu 8Wonder 2025: Moments of Wonder sáng đèn, bắt đầu đại nhạc hội đẳng cấp nhất mùa hè.
8Wonder 2025 bán hết 50.680 vé: Cột mốc mới với ngành công nghiệp biểu diễn
Theo thông tin từ ban tổ chức, đến tối ngày 22/8, toàn bộ 50.680 vé của đại nhạc hội 8Wonder 2025 đã được bán hết.