Nỗi đau ‘ly hương’ mỗi mùa hạn mặn

Phạm Sơn - 10:25, 06/06/2024

TheLEADERThiếu cơ hội sinh kế, nhất là trong mỗi mùa hạn mặn, lao động trẻ ở Đồng bằng sông Cửu Long ồ ạt “đi Bình Dương”,, để lại nhiều hệ lụy.

Nỗi đau ‘ly hương’ mỗi mùa hạn mặn
Người trẻ miền Tây không có thu nhập trên ruộng vườn, bắt buộc phải tìm đến các khu công nghiệp ở miền Đông. Ảnh: Hoàng Anh

Cuối tháng 5, mưa về, Đồng bằng sông Cửu Long kết thúc một trong những đợt hạn mặn có thể nói là khủng khiếp bậc nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, hạn mặn qua đi, nỗi đau vẫn còn ở đó.

Ông Võ Xuân Tân, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang, cho biết, tình trạng di cư sang các tỉnh, thành miền Đông diễn ra khá phổ biến ở Hậu Giang nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

Bởi lẽ, hạn mặn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp cũng như một số ngành tiểu thủ công nghiệp. Có nhiều trường hợp, bà con phải bỏ cả một vụ sản xuất, mất đi thu nhập ngay trên chính ruộng vườn của mình.

Không có thu nhập, đảm bảo cuộc sống đã là bài toán khó, đảm bảo vốn để tái sản xuất vụ mùa sau còn khó khăn hơn. Cực chẳng đã, người trẻ bắt buộc phải bỏ quê hương, rời ruộng vườn, tìm đến các khu công nghiệp.

Trà Vinh dù có công nghiệp phát triển hơn so với một số địa phương miền Tây nhưng tình trạng di cư vẫn diễn ra một cách dai dẳng, đặc biệt tại một số xã ven biển. Không sống được bằng mảnh vườn thì bắt buộc phải “ly hương”, thế nhưng “ly hương” rồi, cuộc sống chưa chắc được đảm bảo.

Ông Trịnh Minh Hùng, Phó giám đốc Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Trà Vinh, cho biết, nhiều gia đình lựa chọn tìm đến Đồng Nai, Bình Dương hay TP.HCM nhưng vẫn vướng phải nhiều khó khăn, đặc biệt là về nhà ở hay việc học hành của trẻ em.

Vòng xoáy

Ông Trần Hữu Hiệp, nguyên thành viên Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết, di cư từ nông thôn lên thành thị thực chất là một hiện tượng hết sức bình thường ở nhiều quốc gia trên thế giới và sẽ còn tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, ở Đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng này đang diễn ra quá mạnh đến mức đáng báo động.

Điển hình như tại Hậu Giang, tỷ lệ di cư thuần mỗi năm rơi vào khoảng từ 1,5 – 5,6%. Tính từ khi tách khỏi Cần Thơ cho đến năm 2019, dân số toàn tỉnh giảm tới 37 nghìn người.

Trong 10 năm qua, tổng số dân di cư khỏi miền Tây lên đến 1,3 triệu người, cao hơn cả dân số của một số địa phương tại vùng này. Đáng chú ý, người rời đi đa phần ở độ tuổi trẻ, để lại làng quê người già và trẻ em.

Ông Tân đánh giá, mất đi nguồn lao động trẻ tác động rất lớn đến phát triển kinh tế, xã hội, làm giảm năng suất, hiệu quả không chỉ nông nghiệp mà còn dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Thế mạnh lao động dồi dào của miền Tây vì vậy cũng không còn, trong khi cơ sở hạ tầng chưa phát triển, các hoạt động kinh tế gặp nhiều tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu. Từ đó, doanh nghiệp không hứng thú đầu tư vào miền Tây, bài toán sinh kế, thu nhập của người dân tiếp tục rơi vào bế tắc.

Tất cả những yếu tố đó tác động qua lại với nhau như một “vòng xoáy đi xuống”, theo Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long do Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Trường chính sách công và quản lý, Đại học Fulbight, công bố.

Hệ lụy không chỉ ở mặt kinh tế. Cách đây 15 năm, ông Hiệp từng cảnh báo về hiện tượng trẻ em phải xa cha mẹ, hoặc theo cha mẹ đến ở những khu dân cư tạm bợ, thiếu thốn, dẫn đến cả một thế hệ phải chịu những tổn thương sâu sắc.

Ngay cả nơi lao động trẻ tìm đến là các tỉnh thành miền Đông, áp lực lớn về quản lý dân cư, trật tự xã hội, chăm lo nhà ở, đời sống cho công nhân cũng là bài toán nan giải.

Giải pháp căn cơ

Hạn mặn là câu chuyện thường trực. Hạn mặn đang có dấu hiệu gia tăng cường độ nhưng theo ông Hiệp, đó không phải là điều bất ngờ mà hoàn toàn đã được cảnh báo trước. Do đó, cần có những giải pháp mang tính căn cơ để giải quyết nỗi đau “ly hương” sau mỗi mùa hạn mặn.

Còn ông Tân nhìn nhận, biến đổi khí hậu chỉ là “giọt nước tràn ly”, câu chuyện di dân xuất phát từ chính thực trạng kinh tế miền Tây đang chậm chuyển dịch về cơ cấu dẫn đến bà con thiếu việc làm, thiếu đi cơ hội sản xuất.

Vì vậy, giải pháp căn cơ, theo đại diện Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang, nằm ở việc phát triển những cụm công nghiệp, khu công nghiệp, thủ công nghiệp, phát triển dịch vụ để thu hút lao động.

Cùng với đó, cần có chính sách tín dụng nhằm tạo ra nguồn vốn cho bà con để nâng cấp kỹ thuật sản xuất nông nghiệp hoặc có thể khởi nghiệp để tạo sinh kế cho bản thân và những người xung quanh.

Mặt khác, nông nghiệp vẫn luôn là thế mạnh cần được chú trọng. Đại diện Sở Lao động thương bình và xã hội Trà Vinh bổ sung, cần thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp từ manh mún sang quy mô lớn, tạo mối liên kết bền vững giữa nông dân, doanh nghiệp và thị trường.

Bên cạnh đó, chú trọng các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và có giá trị cao, bên cạnh viêc phát triển sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Phát triển công nghiệp chế biến, hỗ trợ bà con tiếp cận khoa học kỹ thuật.

Đồng quan điểm với đại diện các địa phương, theo ông Hiệp, người lao động phải tha hương rất muốn quay về quê hương để làm việc, phần vì tình cảm, sự gắn kết với mảnh đất mình sinh ra và lớn lên, phần vì mong được gần gũi với gia đình.

Do đó, phải tạo ra được không gian sống và cơ hội việc làm, qua đó tạo dựng niềm tin cho người lao động để Đồng bằng sông Cửu Long thực sự trở thành vùng “đất lành chim đậu”, một vùng đồng bằng đáng sống.