Doanh nghiệp đang trong cảnh 'khó có thể khó khăn hơn'

Trần Anh - 11:50, 27/07/2023

TheLEADERNhững dữ liệu của FiinGroup cho thấy, các doanh nghiệp đang ở giai đoạn “khó có thể khó khăn hơn”. Tuy nhiên, nhận định trên cũng hàm ý sự suy thoái đã có dấu hiệu chạm đáy, sự hồi phục nhẹ đã được ghi nhận quý 2/2023 khi tốc độ suy giảm đang có xu hướng chậm lại.

Doanh nghiệp đang trong cảnh 'khó có thể khó khăn hơn'
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup

Kinh tế đã chạm đáy?

“Doanh nghiệp đang có xu hướng co hẹp đòn bẩy tài chính ở hầu hết các ngành và vấn đề không hoàn toàn nằm ở mức độ đòn bẩy tài chính cao mà là năng lực hấp thụ vốn thấp”, đó là nhận định được ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup chia sẻ tại hội thảo mới đây do CLB Nhà báo Chứng khoán tổ chức.

Theo ông Thuân, ở nhiều ngành khác nhau, nhất là các ngành liên quan đến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, đó là vấn đề kinh doanh nhiều hơn là vấn đề nguồn vốn hay tín dụng. Chính sự sụt giảm đơn hàng và dẫn đến doanh thu giảm và biên lợi nhuận thu hẹp làm cho nhu cầu vốn lưu động và vốn đầu tư thấp.

Nhận định của ông Thuân đã được phản ánh ở mức độ tăng trưởng tín dụng rất thấp của kinh tế Việt Nam trong nửa đầu năm 2023. Dù lãi suất giảm, nhưng đến 30/6, dư nợ tín dụng nền kinh tế mới tăng 4,73% so với mục tiêu của cả năm này là khoảng 14%. 

Nguyên nhân chủ yếu là do cầu tín dụng giảm mạnh, sức hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế gặp khó khăn dẫn tới tín dụng cho sản xuất kinh doanh giảm theo.

Mặc dù vậy, đây có thể đã là giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế. Những dữ liệu của FiinGroup cho thấy, các doanh nghiệp đang ở giai đoạn “khó có thể khó khăn hơn” về tình hình kinh doanh và hiệu quả hoạt động tài chính.

Giai đoạn hiện nay được đánh giá còn khó khăn hơn giai đoạn đầu năm 2020, thời điểm gián đoạn kinh doanh do Covid-19. Tuy nhiên, nhận định trên cũng hàm ý sự suy thoái đã có dấu hiệu chạm đáy. Sự hồi phục nhẹ đã được ghi nhận quý 2/2023 khi tốc độ suy giảm đang có xu hướng co hẹp lại.

Doanh nghiệp đang trong cảnh “khó có thể khó khăn hơn”

Theo dự báo của FiinGroup, tổng thể lợi nhuận doanh nghiệp Việt Nam sẽ đi ngang trong cả năm 2023. Trong đó, nhóm ngành tài chính như ngân hàng và chứng khoán là khả quan nhất khi dự kiến vẫn duy trì tăng trưởng lợi nhuận sau thuế.

Ở nhóm doanh nghiệp phi tài chính, mức độ suy giảm lợi nhuận dự kiến khoảng 16,5% cho cả năm 2023. Trước đó, lợi nhuận nhóm này đã giảm gần 42% trong nửa đầu năm 2023. Dự báo của FiinGroup cho thấy kỳ vọng về mức độ khôi phục trong nửa cuối năm nay nhờ động lực phục hồi từ nhóm doanh nghiệp bất động sản và nhóm tiêu dùng nội địa.

Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp

Để đẩy nhanh tốc độ phục hồi của nền kinh tế, ông Thuân đưa ra gợi ý một số chính sách để khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp. Đầu tiên đó là đẩy mạnh hơn nữa các chính sách hỗ trợ tài khóa và tiền tệ hiện đang triển khai. 

Lãi suất đang có xu hướng giảm mạnh sau các chính sách của Chính phủ và NHNN là một dấu hiệu rất tích cực việc khai thông vốn cho doanh nghiệp và cho khôi phục tăng trưởng cao.

“Tuy nhiên, chúng ta không chỉ tập trung vào nới lỏng tiền tệ vốn có thể làm gia tăng rủi ro khi vốn lại chảy vào các kênh đầu tư có rủi ro cao hoặc có tính đầu cơ trong bối cảnh khả năng hấp thụ vốn thấp như hiện nay. Nếu chỉ tập trung vào chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao không hẳn đã tốt, cần triển khai các chính sách và chương trình có trọng tâm theo nhóm ngành”, ông Thuân nhận định.

Chủ tịch FiinGroup dẫn chứng chương trình hỗ trợ lãi suất 15 ngàn tỷ đồng hiện nay của Chính phủ cho nhóm ngành lâm - thủy sản là rất trúng, kịp thời và cần thiết. Chính phủ có thể xem xét mở rộng ra một số ngành khác nữa với những tiêu chí và hưỡng dẫn cụ thể hơn.

Chẳng hạn ngành dệt may hiện không chỉ đóng góp gần 37,5 tỷ USD xuất khẩu trong năm 2022 mà còn với khoảng 3 triệu việc làm. Hiện tại tình hình kinh doanh khó khăn nhưng có chỉ báo cho thấy cầu về đơn hàng có thể hồi phục trở lại vào khoảng thời gian cuối năm tới đây khi nhu cầu nhập hàng quay trở lại phục vụ mùa mua sắm vào cuối năm.

Việc phát huy hiệu quả các chính sách hỗ trợ kịp lúc này sẽ góp phần hỗ trợ doanh nghiệp có thể duy trì sản xuất kinh doanh và hạn chế sa thải lao động nhằm chuẩn bị cho giai đoạn hồi phục sắp tới.

Thứ hai, tiếp tục cải thiện công tác minh bạch thông tin với thị trường chứng khoán (bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp), không chỉ góp phần nâng hạng thị trường từ cận biên lên mới nổi mà góp phần cải thiện chất lượng hàng hóa để nhà đầu tư có thể yên tâm hơn để đầu tư dài hạn thay vì chỉ tập trung giao dịch ngắn hạn, đâu cơ hoặc để tiền gửi ở ngân hàng. Sự cải thiện này cũng sẽ giúp phát huy vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo nhóm nhà đầu tư mục tiêu. Trái phiếu chào bán đại chúng nên được tập trung phát triển theo hướng minh bạch hơn và thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp niêm yết. 

Ngược lại, trái phiếu chào bán cho nhà đầu tư cá nhân (kể cả chuyên nghiệp) nên được ưu tiên xếp hạng tín nhiệm độc lập hoặc được ngân hàng tốt bảo lãnh. Ngoài ra, điều kiện và điều khoản chuẩn nên được xây dựng và quy định chi tiết cho trái phiếu chào bán cho nhà đầu tư cá nhân.

Doanh nghiệp đang trong cảnh “khó có thể khó khăn hơn” 1

Thứ tư, tập trung vào nâng hạng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam chỉ được xếp hạng tín nhiệm ở mức BB+ (theo S&P) trong khi các nước trong khu vực ASEAN có tính cạnh tranh cao với Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài như Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia đều có mức xếp hạng cao hơn. 

Hệ quả là các doanh nghiệp Việt Nam hiện phải chịu mức lãi suất vay hoặc huy động trên thị trường quốc tế cao hơn 2-4% so với các doanh nghiệp tương đồng tại các nước ASEAN.

“Chính phủ đã đặt mục tiêu đến 2025 sẽ nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên mức BBB trở lên nhưng chúng ta nên quyết liệt hơn trong việc triển khai mục tiêu này để có thể tạo lợi thế so sánh tốt trong bối cảnh thị trường vốn và ngành tài chính của Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với thế giới”, ông Thuân nhấn mạnh.

Cuối cùng, đẩy mạnh hơn nữa kênh trái phiếu và tín dụng xanh. Tài chính bền vững, bao gồm trái phiếu xanh là xu hướng lớn trên thế giới và khu vực. Việt Nam đã cam kết zero carbon đến 2050 và dòng vốn nước ngoài và nội địa quan tâm rất lớn. Thị trường cũng đang rất kỳ vọng khung phân loại trái phiếu xanh và tín dụng xanh của Việt Nam sẽ sớm được Chính phủ ban hành. Do đó, doanh nghiệp nên chủ động chuẩn bị và tận dụng kênh vốn này.