Kỳ vọng của Thủ tướng về sự trưởng thành của doanh nghiệp tư nhân
Thủ tướng Chính phủ mong doanh nghiệp đồng hành hướng đến mục tiêu thể chế phải thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản lý thông minh.
Không có kinh tế tư nhân làm chủ được công nghệ thì không thể có tự lực tự cường, theo TS. Lê Xuân Nghĩa.

Gắn bó với các thế hệ doanh nhân, doanh nghiệp trong suốt gần 40 năm đổi mới, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển, không chỉ chứng kiến mà còn cảm nhận sâu sắc được những biến động của kinh tế nước nhà và cả những thăng trầm của giới doanh nhân Việt.
Chia sẻ với TheLEADER đúc kết về lực lượng doanh nhân sau hành trình gần 40 năm đổi mới, ông cho rằng, trong một môi trường kinh doanh nhiều thay đổi như 40 năm qua, sự hiện diện của đội ngũ doanh nhân hôm nay cho thấy họ là những người vô cùng dũng cảm, yêu nước và vô cùng kiên nhẫn để đạt được thành tựu như hiện tại.
Nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô, ông đánh giá thế nào về vị trí thực sự của đội ngũ doanh nhân trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Trụ cột của kinh tế Việt Nam sau 40 năm đổi mới vẫn là kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài. Trong đó, lực lượng phát triển nhanh và hùng mạnh nhất là các doanh nghiệp tư nhân trong nước với khoảng 20-30 tập đoàn rải đều các lĩnh vực quan trọng.
Ở lĩnh vực khó khăn nhất – cơ khí chế tạo, đã từng ghi nhận hàng loạt nhà máy như Bắc Thái, cơ khí Trần Hưng Đạo, 1-5, Mai Động, gang thép Thái Nguyên…với nhiệm vụ chủ yếu là bảo trì, sửa chữa các thiết bị phương tiện nhập khẩu từ nước ngoài.
Sau một thời gian đổi mới, những cơ sở nêu trên bị giải thể và đón làn sóng doanh nghiệp tư nhân bước vào sân chơi này với những tên tuổi tiên phong như Vingroup, Thaco, Huyndai Thành Công, Hòa Phát, Geleximco, Đèo Cả…
Hoạt động của các doanh nghiệp nêu trên không dừng ở sửa chữa bảo trì mà còn vươn tới lắp ráp, sản xuất một phần để tăng giá trị nội địa hoá sản phẩm. Trong đó, dẫn đầu phải kể đến Vingroup với tỷ lệ nội địa đã lên tới 60%, tiếp sau là những Geleximco với bột giấy – thượng nguồn của công nghiệp, hay Đèo Cả nổi danh với những công trình đảm bảo về chất lượng. Doanh nghiệp tư nhân đã bước vào đảm nhận trách nhiệm trong lĩnh vực mang tính rường cột của kinh tế nước nhà.
Ngoài ra, còn không ít những doanh nghiệp lớn trong mảng nông nghiệp công nghệ cao như TH TrueMilk, dệt may, giầy da, bán lẻ.
Đặc biệt, ở lĩnh vực đặc biệt quan trọng mà lâu nay Nhà nước đảm trách là nhiên liệu và năng lượng cũng dần dần ghi nhận sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân với hiệu quả tích cực.
Tóm lại, sau 40 năm đổi mới, doanh nghiệp tư nhân đã khẳng định được vai trò tiên phong và động lực quan trọng của mình thông qua việc bước vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Hai nghị quyết 41-NQ/TW và 68 khẳng định kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế. Theo ông, điều này phản ánh bước tiến gì trong tư duy phát triển của Nhà nước đối với khu vực doanh nhân?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Cần khẳng định đây là bước tiến bộ vượt bậc về tư duy dựa trên cơ sở thực tiễn. Doanh nghiệp, kinh tế tư nhân tiến nhanh, mạnh và góp mặt ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế như giao thông vận tải, logistics, bán lẻ, cơ khí chế tạo, bất động sản, du lịch… đã giúp hình thành cách nhìn của toàn xã hội nói chung và nhà hoạch định chính sách nói riêng: Thừa nhận trên thực tế (không phải trên hình thức) về vai trò – động lực quan trọng của kinh tế tư nhân.
Dù được khẳng định về vai trò, không gian phát triển của doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế bởi thể chế. Vậy đâu là nút thắt lớn nhất cần tháo gỡ để doanh nhân có thể phát huy tối đa năng lực đổi mới sáng tạo, thưa ông?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Có ba lĩnh vực trụ cột ảnh hưởng mạnh tới phát triển kinh tế tư nhân gồm: đất đai, vốn và thị trường.
Thứ nhất, chính sách tiếp cận đất đai dành cho doanh nghiệp phát triển, mở rộng nhà máy, còn nhiều vướng mắc.
Thứ hai, về nút thắt vốn tín dụng, Hàn Quốc và Trung Quốc đều giữ lại những ngân hàng lớn, có khả năng tài trợ những khoản vay lớn, dài hạn, lãi suất thấp cho khu vực công nghiệp. Trong khi đó, các ngân hàng của chúng ta lại không đủ khả năng tài trợ cho những dự án phát triển công nghiệp tỷ đô, thời hạn dài 20-25 năm với lãi suất tương đương thị trường quốc tế.
Thậm chí còn bảo lãnh cho doanh nghiệp của họ vay vốn nước ngoài. Điều này ở Việt Nam là nút thắt rất lớn. Cụ thể, khi doanh nghiệp đầu tư cho công nghiệp nhưng chỉ được tiếp cận những khoản vay nhỏ lẻ, phải có tài sản đảm bảo, thời hạn vay ngắn và lãi suất ngang bằng cho vay vào các lĩnh vực khác nên không thể đầu tư phát triển cho công nghiệp.
Nút thắt thứ ba là thị trường, chúng ta mở cửa thị trường quá sớm trong khi không có các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ thị trường nội địa, những doanh nghiệp non trẻ của Việt Nam. Điều này dẫn tới các ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ nước ngoài tràn ngập vào Việt Nam gây áp lực cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp nội địa. Thậm chí, ngành công nghiệp nhẹ như đồ uống giải khát, bánh kẹo, bán lẻ đều bị doanh nghiệp ngoại thâu tóm.
Ngoài ra, một rào cản nữa là xã hội. Nhiều người Việt có thói quen "chuộng ngoại – chê nội". Ví dụ, mua một chiếc điện thoại 100% sản xuất bởi Trung Quốc thì không sao, Tesla nhập phụ tùng của Trung Quốc thì không sao, nhưng khi doanh nghiệp Việt Nam làm ra một sản phẩm trong đó có sử dụng linh kiện nhập khẩu từ Trung Quốc thì bị đánh giá thấp.
Điều này làm doanh nghiệp hết sức thất vọng và gây ra tâm lý “xem thường” doanh nghiệp tư nhân nội địa và không hỗ trợ doanh nghiệp cả về mặt vốn, công nghệ tới uy tín thị trường.
Khi có một doanh nghiệp nào đó lớn lên thì dư luận thường "tìm cách để chê bai". Thậm chí, có những chính sách của Chính phủ như đổi xe xăng sang xe điện trong nội đô cũng bị dư luận đổ lỗi cho doanh nghiệp. Sở dĩ có rào cản này, theo tôi là do việc làm gương của chính quyền. Như ở Hàn Quốc, từ Tổng thống cho đến người dân, kể cả các doanh nghiệp tư bản lớn, chủ yếu dùng hàng nội địa.
Như vậy, để doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân rộng đường phát triển một cách tối ưu, cần thiết tháo gỡ các nút thắt nêu trên.
Trong bối cảnh thúc đẩy chuyển đổi số và tăng trưởng xanh, có ý kiến cho rằng nhiều doanh nhân Việt vẫn thiên về “cơ hội kinh doanh” hơn là “sứ mệnh phát triển”. Ông nhìn nhận thế nào về sự khác biệt này và làm sao để hình thành lớp “doanh nhân chiến lược” – những người gắn lợi ích doanh nghiệp với lợi ích quốc gia?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Thực ra doanh nghiệp luôn quan tâm nhiều đến cơ hội và lợi ích ngắn hạn, bởi lẽ họ muốn thu hồi nhanh chóng đồng vốn mà mình bỏ ra. Để họ trở thành doanh nghiệp mang tính rường cột, có tính chiến lược thì đòi hỏi bàn tay của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ phải tạo điều kiện giúp doanh nghiệp phát triển theo chiến lược công nghiệp.
Đây là điều Park Chung Hee nói với tất cả doanh nghiệp khi mới đắc nhiệm. Ông này tuyên bố, tài sản của doanh nghiệp là của doanh nghiệp nhưng sử dụng và phát triển phải dựa trên cơ sở chiến lược và đường lối của Chính phủ. Năm 1960, thu nhập bình quân của Hàn Quốc là khoảng 60USD, chưa bằng 50% của Philippines và Indonesia nhưng hiện tại đã gấp 5-6 lần hai quốc gia trên.
Bài học nằm ở việc Chính phủ xác định chiến lược phát triển công nghiệp và hướng tất cả doanh nghiệp vào con đường này thông qua thiết kế các chính sách hỗ trợ về đất đai, vốn và thị trường.
Gần đây, Vingroup liên tiếp bước vào hai lĩnh vực trọng yếu là năng lượng và luyện thép, vốn chỉ dành cho khu vực Nhà nước và FDI với những siêu dự án tỷ đô. Ông đánh giá ra sao về việc Nhà nước giao trọng trách cho những doanh nghiệp tư nhân trong nước như Vingroup – thậm chí “phá bỏ” những quy trình quen thuộc?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Thực tế, ít người hiểu về Vingroup. Đây là tập đoàn công nghiệp có chiến lược phát triển mang tầm nhìn xa sớm nhất ở Việt Nam.
Vingroup từng ký giao ước với các trường đại học của Việt Nam với nội dung đào tạo 100.000 kỹ sư công nghệ trong 10 năm ngay từ năm 2012 (trong đó, Vingroup sẽ chọn ra 100 người giỏi nhất để phục vụ các mảng miếng đầu tư, kinh doanh của mình).
Thực tế, Vingroup vẫn đang kiên định thực hiện giao ước này thông qua đầu tư vào các trường học, tạo ra các giải thưởng quốc tế để học hỏi kinh nghiệm sàng lọc người tài. Đồng thời, Vingroup cũng là tập đoàn đầu tiên của Việt Nam huy động các tinh hoa từ nước ngoài – Việt kiều về làm việc cho các đơn vị của mình như VinFast, VinBigData, VinAI hay VinBrain.
So với các lĩnh vực đã và đang triển khai, thì năng lượng và luyện thép rõ ràng chưa phải áp lực và đủ phức tạp với Vingroup. Luyện kim là công nghệ thượng nguồn, chế tạo máy là trung nguồn còn lắp ráp giữ vai trò hạ nguồn. Vingroup sau khi đạt tới trình độ trung nguồn thì việc vươn tới thượng nguồn là dễ hiểu để tạo ra sản phẩm thép chuyên dụng dùng cho sản xuất ô tô, tên lửa vệ tinh.
Đây là bước đi mới nhưng hợp lý và đúng hướng bởi không làm chủ được luyện kim thì không làm chủ được cơ khí chế tạo. Từ đó dẫn tới không làm chủ được trang thiết bị cho kinh tế lẫn quốc phòng trong tương lai.
Theo tôi, có lẽ chỉ Vingroup mới cáng đáng nổi phần việc này khi sở hữu lực lượng nhân tài có chất lượng thực sự - điều hiếm gặp ở những doanh nghiệp tư nhân còn lại trên thị trường trong nước.
Đây là cơ sở và lý do vững chắc để lựa chọn Vingroup vào những lĩnh vực đặc biệt then chốt của nền kinh tế.
Trong khi các tập đoàn lớn được kỳ vọng dẫn dắt ở các ngành trọng yếu, phần còn lại – khối doanh nghiệp vừa và nhỏ – nên được định vị và hỗ trợ ra sao để không bị đứng ngoài cuộc đổi mới mô hình tăng trưởng?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Nền kinh tế được huy động vốn khá nhiều bằng nguồn FDI, trong đó có ngành điện tử và cơ khí chế tạo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phía nước ngoài có sử dụng doanh nghiệp phụ trợ của Việt Nam nhưng với số lượng rất ít. Thông thường, đối tác ngoại không chuyển giao công nghệ, thay vào đó chỉ giao doanh nghiệp Việt thực hiện các công việc đơn giản như bao bì, đóng gói.
Ngược lại, những doanh nghiệp nội địa như Thaco hay Vingroup, Thành Công Huyndai sử dụng rất nhiều doanh nghiệp phụ trợ trong nước – điều này tạo nên hệ sinh thái rất tốt cho lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lĩnh vực.
Bất cứ ngành nào của nền kinh tế cũng cần được lĩnh xướng bởi một số doanh nghiệp trụ cột để tạo ra những doanh nghiệp vệ tinh, thay vì trông chờ vào doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ - vốn rất khó.
Ví dụ, Vingroup đang có mối liên hệ với hàng chục doanh nghiệp phụ trợ để thực hiện các đại dự án. Đơn cử công trình triển lãm trung tâm – The Grand Expo – với kết cấu mái vòm khổng lồ mô phỏng mai Rùa Vàng tại Đông Anh (Hà Nội) ghi nhận 22 doanh nghiệp của Việt Nam cùng chung tay triển khai với Vingroup – trong đó trụ cột là Tập đoàn Đại Dũng. Trong dự án này, hay nhiều dự án khác, những doanh nghiệp ‘đầu đàn’ như Vingroup đóng vai trò hướng dẫn, dẫn dắt và quản trị quy trình làm việc của các doanh nghiệp vệ tinh.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn để đảm bảo tầm nhìn chiến lược. Đây là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp ‘đầu đàn’ tạo ra hệ sinh thái xung quanh – nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thị trường để hoạt động và học hỏi được những vấn đề sát sườn tới công nghệ, quản trị, số hoá từ chủ đầu tư để tiến bộ.
Ông đánh giá ra sao về thế hệ doanh nhân hôm nay – những người đang gánh trọng trách kiến tạo mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Doanh nghiệp Việt Nam đều là những doanh nghiệp yêu nước. Đó là những thế hệ doanh nhân dân tộc đáng khen ngợi và vinh danh về tâm huyết phát triển doanh nghiệp của mình trên nền tảng chung của quốc gia: Tự lực – tự cường. Không có kinh tế tư nhân làm chủ được công nghệ thì không thể có tự lực tự cường.
Trong một môi trường kinh doanh như 40 năm qua, sự hiện diện của đội ngũ doanh nhân hôm nay cho thấy họ là những người vô cùng dũng cảm, vô cùng yêu nước và vô cùng kiên nhẫn để đạt được thành tựu như hiện tại.
Xin cảm ơn ông!
Thủ tướng Chính phủ mong doanh nghiệp đồng hành hướng đến mục tiêu thể chế phải thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản lý thông minh.
Doanh nghiệp Việt đã đi xa bằng xuất khẩu nhưng để thật sự vươn tầm quốc tế, mũi nhọn chiến lược cần chuyển từ tăng kim ngạch sang tạo giá trị và vị thế.
Kinh tế tư nhân từ lâu đã được xác định là “động lực quan trọng” của nền kinh tế và ngày càng được xem trọng. Tuy nhiên, sau gần bốn thập kỷ đổi mới, khu vực này vẫn chưa có được vị trí xứng tầm.
Sau hơn hai thập kỷ chờ đợi, chứng khoán Việt Nam đã vào nhóm các thị trường mới nổi, hứa hẹn về một kỷ nguyên mới với dòng vốn hàng chục tỷ USD.
Các vụ lừa đảo trực tuyến ngày càng tinh vi, lan rộng tới mọi tầng lớp. Việt Nam cần một chiến dịch truyền thông quy mô toàn dân để nâng cao nhận thức, giúp người dân nhận diện, phản ứng và tự bảo vệ mình trong không gian số.
Quyết định chuyển hai khu “đất vàng” thành công viên công cộng của TP.HCM được ví như tuyên ngôn về tư duy phát triển đô thị mới, chuyển từ 'thành phố kinh tế' sang 'thành phố đáng sống'.
Công ước Hà Nội thiết lập cơ chế chia sẻ dữ liệu minh bạch, kịp thời, góp phần ngăn chặn hiệu quả các hành vi xâm phạm quyền con người trên không gian mạng.
Trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với các đại biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7.
Từ ngày 1/11/2025, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn (Quảng Ninh) chính thức khai thác chuyến bay charter từ Thâm Quyến (Trung Quốc), đánh dấu việc khôi phục đường bay quốc tế đầu tiên sau đại dịch cũng như sự tăng trưởng trở lại của khách Trung Quốc.
Khi cuộc di cư ra vùng ven đô để phát triển nhà ở trở thành xu thế tất yếu, nhưng nguy cơ hình thành các khu đô thị ma cũng đang rình rập, nếu các chủ đầu tư không có một chiến lược phát triển bài bản và tầm nhìn dài hạn.
Hiệp hội Bất động sản TP.HCM đề xuất không hồi tố, thu tiền sử dụng đất bổ sung đối với các doanh nghiệp không có lỗi và cơ chế đặc thù để giải quyết vướng mắc về đất đai cho các doanh nghiệp cổ phần hóa.
Hợp tác dự kiến bắt đầu triển khai từ đầu năm 2026, nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch xanh cho khách hàng trong các Khu công nghiệp Amata.
HoREA đề xuất mức tiền đặt trước khi đấu giá đất tối thiểu 20% và tối đa 50% giá khởi điểm để hạn chế tình trạng trúng đấu giá rồi bỏ cọc.
Nhiều dự án năng lượng tái tạo tại Lâm Đồng và Quảng Ngãi - hai “thủ phủ” mới của điện gió, điện mặt trời – đang tắc nghẽn bởi quy hoạch và thủ tục đầu tư, khiến hàng chục nghìn tỷ đồng vốn tư nhân chưa thể chảy vào lưới điện quốc gia.
Với 100% đại biểu tán thành, ông Hồ Sỹ Hùng, Bí thư Đảng ủy VCCI nhiệm kỳ 2025 - 2030 được bầu giữ chức Chủ tịch VCCI nhiệm kỳ 2021 - 2026.