Ngành sản xuất khó khăn, PMI chìm dưới ngưỡng 50

Phương Anh - 20:22, 01/12/2022

TheLEADERSau thời kỳ tăng kéo dài hơn một năm, Chỉ số Nhà quản trị mua hàng – PMI ngành sản xuất của Việt Nam rơi xuống dưới mức trung tính 50 điểm trong tháng 11, cho thấy các điều kiện kinh doanh suy giảm mạnh.

Dữ liệu mới nhất từ S&P Global cho biết PMI ngành sản xuất của Việt Nam đạt 47,4 điểm trong tháng 11, giảm mạnh so với con số 50,6 điểm của tháng trước nữa, đánh dấu kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 13 tháng.

Ông Andrew Harker, Giám đốc kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho biết: “Trong bản công bố PMI tháng trước, chúng tôi cho rằng đã có những dấu hiệu cầu giảm trên thế giới phản ánh vào ngành sản xuất của Việt Nam. Bức tranh đã tối hơn đáng kể trong tháng 11, khi số lượng đơn đặt hàng mới, xuất khẩu, sản lượng, việc làm và hoạt động mua hàng đều giảm”.

“Với niềm tin kinh doanh cũng bị giảm, ngành sản xuất có vẻ như có một kết thúc khó khăn cho năm 2022”, ông nhấn mạnh.

Ông lưu ý thêm: “Một điểm đáng quan tâm khác của khảo sát PMI kỳ này là ảnh hưởng của việc giảm giá đồng Việt Nam gần đây so với đô la Mỹ. Điều này đã làm tăng chi phí đầu vào, và góp phần làm giảm số lượng đơn đặt hàng mới. Tuy nhiên, mức tăng chi phí vẫn tương đối nhẹ nên các công ty vẫn có thể giảm giá bán hàng để kích thích nhu cầu”.

Ngành sản xuất khó khăn, PMI chìm dưới ngưỡng 50
PMI ngành sản xuất Việt Nam.

Cụ thể, theo dữ liệu từ S&P Global, số lượng đơn đặt hàng mới ngành sản xuất giảm lần đầu tiên trong 14 tháng vào giữa quý cuối của năm, chủ yếu phản ánh nhu cầu trên thị trường quốc tế đang yếu đi.

Trên thực tế, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm nhanh hơn so với tổng số lượng đơn đặt hàng mới. Một số thành viên nhóm khảo sát ghi nhận xuất khẩu giảm đã nhắc đến ảnh hưởng của biến động tỷ giá bất lợi lên giá cả, và xung đột quân sự kéo dài tại Ukraine.

Với số lượng đơn đặt hàng mới giảm, các nhà sản xuất Việt Nam cũng giảm sản lượng, ghi nhận lần giảm đầu tiên kể từ tháng 3, với tốc độ giảm nhanh nhất kể từ tháng 9 năm ngoái.

Các công ty sản xuất hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa trung gian có sản lượng giảm, trong khi các công ty sản xuất hàng hóa đầu tư cơ bản có sản lượng tiếp tục giảm.

Cũng giống như xu hướng của sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới, việc làm và hoạt động mua hàng được ghi nhận tiếp tục giảm trong tháng 11.

Ngoài việc phản ánh mức sụt giảm của số lượng đơn đặt hàng mới, số lượng nhân viên giảm cũng phản ánh nỗ lực giảm chi phí ở một số công ty.

Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm đã giúp một số nhà cung cấp tăng tốc độ giao hàng trong tháng 11. Tuy nhiên, tình trạng này bị lấn át bởi tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu và nhiên liệu. Kết quả là, thời gian giao hàng đã bị kéo dài thêm lần đầu tiên trong bốn tháng.

Mặc dù chi phí đầu vào tăng với một tốc độ tương đối chậm trong kỳ khảo sát này, tốc độ tăng giá đã nhanh hơn thành mức cao của bốn tháng. Các thành viên nhóm khảo sát cho biết đồng tiền giảm giá so với đô la Mỹ là một nhân tố chính dẫn đến tăng giá cả đầu vào.

Niềm tin kinh doanh giảm mạnh do số lượng đơn đặt hàng mới giảm, và những lo ngại về nhu cầu trên thị trường quốc tế. Tâm lý kinh doanh giảm xuống mức thấp nhất trong 14 tháng.

Trong khi đó, hy vọng nhu cầu sẽ phục hồi trong năm tới giúp một số công ty vẫn lạc quan về triển vọng sản lượng trong 12 tháng tới.

Tại khu vực ASEAN, Maryam Baluch, chuyên gia kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho biết trong khi nhu cầu trong khu vực yếu hơn đã giúp kiềm chế lạm phát, đồng tiền giảm giá và giá nguyên vật liệu và năng lượng tăng tiếp tục làm tăng áp lực lên giá cả.

Kết quả là, có nhiều ngân hàng trung ương hơn trong khu vực thắt chặt chính sách tiền tệ, như đã xảy ra trong bối cảnh lãi suất tăng cao gần đây ở Indonesia và Philippines.

“Tình trạng tăng trưởng chậm lại trong khu vực làm nguy cơ ngành sản xuất rơi vào suy giảm tăng trong những tháng tới, khi lạm phát cao và các điều kiện tài chính thắt chặt có thể tiếp tục tác động lên nhu cầu”, vị này lưu ý.