Leader talk
Sự nhầm lẫn giữa năng suất lao động và giá trị sản phẩm
Sự nhầm lẫn giữa năng suất lao động và giá trị sản phẩm, lợi nhuận, giá trị thặng dư là một sai lầm phổ biến hiện nay, từ nhà hoạch định chính sách đến doanh nghiệp và địa phương.

Năng suất lao động nhiều năm qua vẫn là bài toán lẩn quẩn. Do không làm chủ thị trường nên thường xuyên rơi vào cảnh năng suất cao, giá bán thấp dẫn đến lợi nhuận, tiền lương thấp, người lao động phải làm việc cật lực hơn, cuộc sống khốn khổ hơn...
Cứ nhìn vào ngành gia công may mặc với hàng triệu lao động đang sống dưới mức nghèo khổ hay thực trạng được mùa mất giá của nông dân ở nhiều địa phương trong nhiều năm qua.
Còn "giá trị sản phẩm" là khái niệm market và marketing, nghiên cứu thị trường và nhu cầu từ đó làm ra sảm phẩm đúng có lợi thế cạnh tranh cao. Đó là quá trình liên thông giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ, có thương hiệu và hệ thống phân phối, làm chủ thị trường, gia tăng giá trị sản phẩm, lợi nhuận cao, tiền lương + thu nhập người lao động và nông dân cao hơn.
Vì vậy, có nhiều doanh nghiệp hay nông dân chỉ lo cải thiện năng suất mà không biết làm chủ thị trường dẫn đến thua lỗ và phá sản. Cùng sản xuất lúa gạo, có nơi và có lúc bán được 50.000 đồng/kg nhưng cũng có nơi chỉ được 10.000 đồng/kg. Đó chính là sự khác biệt giữa chiến lược chú trọng năng suất và chiến lược trọng giá trị.
Năng suất và giá trị - sự nhầm lẫn có hệ thống
Doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách thường nhầm lẫn giữa ba khái niệm cơ bản: Giá thành (production cost), giá bán (selling price) và giá trị (product & brand values). Sự nhầm lẫn tai hại về ba khái niệm này là một hệ luỵ của nền kinh tế Việt Nam suốt thời kinh tế bao cấp với những luận điểm lạc hậu đã bị thế giới từ bỏ. Hệ luỵ của nó còn mãi đến hôm nay, ăn sâu vào trí não của "một bộ phận không nhỏ" trong đó phần đông là những người học gạo, chạy theo bằng cấp để thăng quan tiến chức.
Về cơ bản marketing, lý luận cơ sở của nền kinh tế thị trường cùng một sản phẩm có thể bán với giá khác nhau tuỳ phân khúc, thời điểm bán hàng cho nên giá trị khác nhau. Cùng một sản phẩm nhưng giá trị thương hiệu khác nhau có thể tạo ra lợi nhuận khác nhau và điều này cũng không phụ thuộc gì vào năng suất của nhà máy hay năng suất trên cánh đồng.
Khát khao nâng tầm thương hiệu du lịch Việt của một tân binh
Năng suất lao động là một định nghĩa đang dễ gây hiểu lầm. Công thức tính năng suất hiện tại là: Năng suất lao động = Tổng GDP/Tổng dân số thì về bản chất không phải là sản lượng (volume) mà là thu nhập (revenue) một khái niệm song hàng với giá trị.
Do cấu trúc kinh tế chưa coi trọng khuyến khích những tỷ phần sản phẩm có giá trị cao như chế biến nông sản thực phẩm, hàm lượng chất xám trong công nghiệp, hay những phân đoạn có giá trị cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Kế đến là sự thụ động trong kinh doanh từ chính doanh nghiệp và quan trọng là sự lũng đoạn của các doanh nghiệp nhà nước lớn làm ăn thua lỗ.
Lấy ví dụ ngành đóng tàu và vận tải biển điêu đứng hàng chục năm qua kể từ khi Vinalines/Vinashin bỏ mặc hơn 80% thị phần vận tải biển cho hãng tàu nước ngoài. Ngành may mặc và giày dép, dù sản lượng lớn nhưng chỉ là con số sáo rỗng vì 80% sản xuất gia công (làm thuê) với đơn giá chỉ chiếm 10 - 20% giá trị sau cùng.
Một đôi giày gia công chỉ được 3 - 5 USD và giá bán sau cùng của nhãn hàng như Nike, Adidas là 50 - 100 USD.
Kinh tế thị trường – đó chính là marketing
Trước đây tôi có viết trong bài "Kinh tế thị trường - từ market đến marketing" có những vần đề lý luận bất cập cần phải thay đổi. Mặc dù có thể ghi nhận sự hưởng ứng và đổi mới từ một số địa phương, cụ thể là chương trình Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) gần đây như Quảng Ninh, Huế, Đồng Tháp. Một số bộ ngành có chiến lược và hiệu quả tích cự như ngành nông nghiệp và du lịch.
Sự nhầm lẫn giữa năng suất lao động (sản lượng) và giá trị sản phẩm (lợi nhuận, giá trị thặng dư) là một sai lầm phổ biến hiện nay, từ nhà hoạch định chính sách đến doanh nghiệp và địa phương.
Cụ thể hơn, các chương trình chuyển đổi 'mô hình kinh tế', chương trình tư nhân hoá, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, hạ tầng then chốt như các tuyến quốc lộ cần nâng cấp, sân bay Tân Sơn nhất, cảng biển cho Đồng bằng sông Cửu Long, nâng cao giá trị các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, giảm biên chế các tổ chức xã hội không cần thiết, sáp nhập các cơ quan nhà nước..., tất cả đều diễn biến rất chậm.
Trong những hội thảo gần đây ở Thừa Thiên Huế đưa ra lời kêu gọi phải đưa nơi này thành thành phố công nghệ cao, sạch và đẹp, nông nghiệp phải là nông nghiệp hữu cơ. Những luồng tư tưởng này nếu thật sự lan toả tại một tỉnh thành, đến mọi người dân, mọi doanh nghiệp lớn hay nhỏ, một cách kiên trì có thể dẫn đến sự thay đổi cả một nền kinh tế của địa phương.
Và theo kinh nghiệm đó là 10 năm, chứ không xa lắm, nếu chính quyền, doanh nghiệp và người dân đồng lòng với nhau, thể hiện từ điều tưởng là nhỏ như việc tổ chức nhặt rác mỗi tuần vào chủ nhật do lãnh đạo cao nhất ở địa phương cùng thực hiện, liên tục 15-20 tuần lễ như Thừa Thiên Huế đã làm.
"Market" là ngôn ngữ thuần thị trường nhưng "marketing" thường có nhiều ý tưởng và giải pháp tưởng chừng như gián tiếp hay không liên quan như truyền thông, hoạt động cộng đồng, diễn đàn, hiệp hội. Nhưng nó chắc chắn và thật sự mang lại hiệu quả, mà là hiệu quả rất rộng lớn nhờ sự tham gia hưởng ứng của số đông từ việc tiêu thụ sản phẩm, liên kết phân phối bán hàng, cho tới hợp tác nâng cao các chuỗi giá trị và giải pháp tăng trưởng hay kết nối đầu tư.
VCCI thực hiện chương trình Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, lấy tinh thần kinh tế thị trường làm chủ đạo. PCI nghiên cứu đưa ra bộ tiêu chí mà sự đánh giá hoàn toàn từ khách thể, khách hàng, doanh nghiệp và cộng đồng, không có việc chủ thể tự đánh giá mình (vừa đá bóng, vừa thổi còi).
Vận hành từ 2006 đến nay, PCI là bộ tiêu chí mà lãnh đạo các tỉnh thành khi làm tốt, điểm số cao đã thật sự phản ánh chất lượng và hiệu quả của bộ máy vận hành ở mỗi địa phương, song hành với hiệu quả phát triển kinh tế thị trường ở địa phương. Đó không chỉ là năng suất hay chất lượng của hệ thống từ chính quyền đến doanh nghiệp và cuộc sống của cả cộng đồng. Đúng hơn đó là giá trị thương hiệu của cả địa phương.
Marketing thương hiệu làm rõ giá trị hơn năng suất
Về cơ bản giá bán là do người bán (Seller) hay doanh nghiệp định ra nhưng giá trị thì do người mua (buyer) xác định. Đây là một định đề cơ bản không có ngoại lệ. Người ta hay nói nhiều về quyền lực người mua (purchasing power) nhưng đó chỉ là khi mà bạn đã là trung tâm của thiên hạ, bạn đã có một thương hiệu mạnh thống trị cả chuỗi cung ứng.
Xã hội hiện đại của thế giới cấu thành bởi quyền nhân chủ - đó cũng chính là nguyên lý vận hành marketing và thương hiệu. Cũng dựa trên quyền nhân chủ, con người cá thể và tâm lý số đông người tiêu dùng hay xã hội dân chủ có sự tương đồng với nhau về bản chất.
Khi nói giá trị là khái niệm thuộc về người mua, điều này khác với giá bán và (đồng thời) giá mua sau cùng của quá trình trao đổi. Thường người mua đồng ý mua với một mức giá họ thương lượng mà có được, nhưng giá trị của chính sản phẩm đó thì ít khi họ nói ra. Giá trị là một khái niệm phức tạp.
Một trong những khái niệm thường thấy là giá trị của doanh nghiệp, được định giá khi mua bán sáp nhập(M&A) hay giá trị một miếng đất khi chuyển đổi công năng sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất đô thị.
Có những sản phẩm nếu mới sẽ có giá nhưng cũng có những sản phẩm như đồ cổ thì ngược lại, càng cổ càng có giá. Cùng một sản phẩm, vật phẩm, nó có giá trị với người A nhưng có thể không có giá trị đối với người B. Chúng ta có thể nhìn thấy hàng trăm ví dụ như thế xảy ra trong đời sống.
Khi tiếp cận giá trị nên dùng giác độ của thương hiệu (brand approach) hơn là nhìn với giác độ sản phẩm (product approach). Vì vậy chúng tôi quen nói "giá trị thương hiệu" hơn là nói "giá trị sản phẩm". Hay như định nghĩa bất biến trong marketing "sản phẩm là một tập hợp các lợi ích" và "thương hiệu là một tập hợp các giá trị". Trong đó quá trình marketing giúp chúng ta chuyển một sản phẩm trở thành một thương hiệu. Từ đó truy ngược khái niệm năng suất, theo đó hàm lượng giá trị trong sản phẩm (có thương hiệu) càng cao thì năng suất giá trị càng cao chứ không phải năng suất sản lượng càng cao.
Trong định nghĩa thương hiệu người ta gọi giá trị mà thương hiệu mang lại là premiumness - nó có được nhờ tài sản thương hiệu (brand equity). Khi hiểu đến đây chúng ta đã đạt đến những mô hình kinh tế của Apple, Samsung hay Louis Vuitton chứ không còn là trồng lúa năng suất cao, hay gia công may mặc với đơn giá ngày càng rẻ mạt với đồng lương chết đói như hiện tại.
Đầu tư vào thương hiệu chứ không chỉ năng suất
Đầu tư vào thương hiệu là đầu tư vào thị trường, một tập hợp các giải pháp chuyên nghiệp và chiến lược, nghiên cứu thị trường (từ xu hướng đến nhu cầu và phân khúc), thấu hiểu thị trường cả trong nước và quốc tế.
Bản chất của kinh tế thị trường thật ra là cái vòng lẩn quẩn giữa paradox (nghịch lý) con gà và quả trứng. Vì vậy bản chất chiến lược trong kinh tế thị trường đó là việc tạo ra những cú hích đúng chỗ và đúng lúc. Không có nguyên tắc về ‘đúng hay sai’ đơn thuần, tuyệt đối không có giáo điều.
Để tạo ra đột phá, điều trước tiên là vượt ra khỏi rào cản tâm lý. Đối với người Việt thì căn bệnh phổ biến là tư duy co cụm, không dám vượt ra ngoài biên giới ‘hình chữ S’ của thị trường, không dám mang chuông đi đánh xứ người, ngại nói tiếng Anh, thích viện dẫn những giáo điều sẵn có, từ tư tưởng Khổng giáo đến những lề thói tư duy của người nông dân nhỏ lẻ.
Chẳng hạn, người Việt ai cũng thích đồ hiệu và sính ngoại nhưng doanh nhân lại ngại không xây dựng thương hiệu và thay đổi xuất xứ thương hiệu (branded in USA chẳng hạn), từ đó chấp nhận thân phận của người gia công và ngồi chờ đơn hàng.
Hãy thử nhìn vào nhãn hàng thương hiệu đồ lót nổi tiếng từ Pháp là Corèle V. để thấy cách làm thương hiệu quốc tế của một doanh nhân gốc Việt (ông Trần Văn Phú, Việt Kiều Pháp) hay như nhãn hàng VERA của tập đoàn 100% Việt Nam là Sơn Kim.
Nhiều vị lãnh đạo đều biết, chính cơ chế hạch toán doanh nghiệp vốn nhà nước đã trói buộc những doanh nghiệp lớn (ví dụ Tập đoàn Dệt May Vinatex) đầu tư xây dựng thương hiệu để có thể hy vọng trở thành những ZARA, H&M hay thậm chí là LVMH nhưng đồng thời Chính phủ và lãnh đạo doanh nghiệp lại tự mình làm chậm quá trình cổ phần hoá. Với hàng trăm doanh nghiệp như thế đang bỏ phí tài sản và cơ hội thị trường, với cơ hội đổi đời của hàng triệu lao động.
Thủ tướng: Năng suất lao động chưa 'bung' được là do tiền lương
Năng suất lao động nhiều ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam xếp sau Campuchia
Những ngành quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam như công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng, vận tải kho bãi hiện có năng suất lao động đứng sau Campuchia.
Động lực để tăng năng suất lao động chính là tăng lương, chi thưởng
Nhiều chuyên gia và CEO các danh nghiệp cho rằng tăng lương, chi thưởng hay nói cách khác là tăng chi phí lao động chính là động lực để thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Phó tổng giám đốc Samsung lý giải nguyên do năng suất lao động Việt Nam thấp
Nhìn từ câu chuyện đội tuyển U23 Việt Nam, ông Bang Hyun Woo, Phó tổng giám đốc Samsung Việt Nam cho rằng một CEO giỏi cũng giống như một huấn luyện viên biết dùng người sẽ khai thác được tiềm năng và giá trị của người lao động.
Tổng giám đốc Canon Việt Nam chia sẻ bí quyết tăng năng suất lao động
Theo ông Shunji Sawa, Tổng giám đốc Canon Việt Nam, để nâng cao chất lượng và năng suất lao động, cần phải đổi mới sản xuất và loại bỏ lãng phí.
Trăn trở của ngành du lịch sau sáp nhập tỉnh thành
Khi địa giới hành chính thay đổi, ngành du lịch cũng cần vẽ lại bản đồ thị trường và thương hiệu phù hợp.
Saint-Gobain: Tăng tốc nhờ bệ phóng phát triển bền vững
Saint-Gobain Việt Nam tăng trưởng gấp 4 lần chỉ trong một thập kỷ nhờ đặt tính bền vững là nền tảng xuyên suốt cho quá trình phát triển.
Thuế thu nhập cá nhân có 'gây áp lực' cho người làm công ăn lương?
Thuế thu nhập cá nhân sau hơn 15 năm không điều chỉnh đang bộc lộ nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cải cách để phù hợp hơn trong bối cảnh hiện nay.
Ông Hoàng Nam Tiến cảnh báo thế hệ chưa già đã mất việc vì AI
Theo ông Hoàng Nam Tiến, câu chuyện về AI sẽ mở ra một kỷ nguyên mới, vẽ lại bản đồ lao động và mô hình kinh doanh toàn cầu.
Quy hoạch không gian các vùng phát triển: Hướng đi nào cho phát triển bền vững?
Quy hoạch không gian phát triển các đơn vị hành chính mới làm thế nào phát huy được sức mạnh tổng thể, đảm bảo lợi ích bền vững về dài hạn?
TP.HCM đề xuất đầu tư 2 tuyến metro trên cao 100.000 tỷ đồng
Hai tuyến metro trên cao sẽ kết nối khu vực TP.HCM với Bình Dương cũ, tổng vốn đầu tư gần 100.000 tỷ đồng, góp phần hoàn thiện mạng lưới đường sắt đô thị.
Câu lạc bộ Doanh nhân 2030 gieo chữ trên đá núi
Không chỉ là chuyến thiện nguyện, “gieo chữ trên đá núi” của Câu lạc bộ Doanh nhân 2030 còn là hành trình kết nối cộng đồng doanh nhân, lan tỏa trách nhiệm xã hội.
Chuyển đổi chiến lược hiệu quả, SHS lãi gần 800 tỷ đồng nửa đầu năm 2025
CTCP Chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) vừa công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2025 duy trì tăng trưởng ổn định, phản ánh hiệu quả của chiến lược chuyển đổi và kỳ vọng vào các sản phẩm dịch vụ thế hệ mới.
Chiến dịch dọn rác bãi biển của Vingroup xác lập kỷ lục Việt Nam
Quỹ Vì tương lai xanh – Tập đoàn Vingroup ngày 16/7 được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) trao chứng nhận xác lập kỷ lục “Chiến dịch dọn rác tại bãi biển thuộc các tỉnh, thành có biển của Việt Nam trong cùng một ngày, có số lượng cán bộ - nhân viên đơn vị tham gia nhiều nhất”. Đây là dấu mốc quan trọng, ghi dấu ấn của Vingroup trong việc lan toả tinh thần sống xanh và hành động vì môi trường biển trên quy mô toàn quốc.
Vinhomes và Vincom Retail hợp tác kiến tạo khu phố thương mại đắt giá bậc nhất Hà Nội
Vinhomes và Vincom Retail ngày 16/7 ký kết hợp tác chiến lược phát triển khu phố thương mại hạng sang tại Vinhomes The Gallery (Giảng Võ), đồng thời khai trương phòng trưng bày dự án tại Vincom Long Biên. Sự kiện được xem là cú hích mở ra giai đoạn bứt tốc mới cho bất động sản thương mại cao cấp tại lõi trung tâm Thủ đô.
Tập đoàn TH tung khuyến mãi hè cực đỉnh, dễ chơi dễ trúng với hơn 500.000 giải thưởng
Chỉ với vài bước đơn giản, ai cũng có cơ hội trở thành chủ nhân của những phần quà cực hấp dẫn từ chương trình “Mua đồ uống TH - Trúng hơn 500.000 giải thưởng”.
Tín chỉ carbon rừng: Phía sau nguồn lợi hàng trăm tỷ đồng
Tín chỉ carbon rừng không chỉ góp phần vào mục tiêu giảm phát thải mà còn mang lại nguồn lợi tài chính mới cho các bên.