World Bank đánh giá chi tiết tác động của hiệp định CPTPP đến kinh tế Việt Nam

Đặng Hoa - 15:21, 09/03/2018

TheLEADERTheo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) sẽ mang lại nhiều lợi ích kinh tế to lớn cho Việt Nam.

World Bank đánh giá chi tiết tác động của hiệp định CPTPP đến kinh tế Việt Nam
Các ngành sử dụng nhiều lao động của Việt Nam như da giày, dệt may vẫn được hưởng lợi.

Theo báo cáo Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp Việt Nam do Ngân hàng thế giới (World Bank) thực hiện, CPTPP sẽ bổ sung động lực cho mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của Việt Nam.

Báo cáo này cho thấy, tính đến năm 2030, theo các giả định thận trọng, GDP của Việt Nam ước tính sẽ tăng thêm 1,1% sau khi hiệp định CPTPP được ký kết, so với mức tăng 3,6% của TPP-12; nếu giả định mức tăng năng suất vừa phải, tăng trưởng GDP có thêm ước tính lên tới 3,5% so với 6,6% của TPP-12.

Việt Nam cần vượt qua nhiều thách thức để tối đa hóa lợi ích từ CPTPP
Tác động kinh tế vĩ mô của các hiệp định FTA tiềm năng đối với nền kinh tế Việt Nam tính đến năm 2030 (% chênh lệch so với kịch bản cơ sở). Nguồn: WB

Mức tăng trưởng cao nhất về sản lượng dự tính sẽ thuộc về các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; dệt may cùng với tăng trưởng vừa phải ở một số tiểu lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ.

Có cùng quan điểm, ông Phạm Hồng Hải, Tổng Giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam cho rằng, với việc Mỹ không có mặt trong CPTPP, lợi ích của Việt Nam có thể ít đi so với TPP trước đó, ví dụ GDP chỉ tăng thêm 1,32% thay vì 6,7%, xuất khẩu tăng thêm 4% thay vì 15%.

Mặc dù được đánh giá là đem lại ít khả năng tăng sản lượng và xuất khẩu hơn, WB cho rằng, hiệp định CPTPP sẽ dẫn tới mức độ đa dạng hóa xuất khẩu lớn hơn nếu tính trên thị trường xuất khẩu.

Theo đó, CPTPP được ký kết sẽ giúp xuất khẩu tăng thêm 4,2%; nhập khẩu tăng thêm 5,3% và sẽ tăng cao hơn lần lượt ở các mức 6,9% và 7,6% với kịch bản có năng suất tăng.

Việt Nam cần vượt qua nhiều thách thức để tối đa hóa lợi ích từ CPTPP 1
Thay đổi về thị trường xuất khẩu và lĩnh vực xuất khẩu, kịch bản CPTPP và TPP-12 (tỷ USD). Nguồn: WB

Xuất khẩu tăng dự kiến sẽ đạt cao nhất ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; hóa chất, sản phẩm da và nhựa; thiết bị, phương tiện vận tải; máy móc, thiết bị khác. Nhập khẩu dự kiến sẽ tăng ở tất cả các ngành.

WB cũng chỉ ra rằng, với CPTPP, mức thuế xuất nhập khẩu bình quân gia quyền áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ giảm mạnh từ 1,7% xuống 0,2%.

Trong dài hạn, lợi ích đạt được từ CPTPP không chỉ là tăng xuất khẩu mà còn bao gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu. Đầu tư tăng nhờ các lợi ích tiềm năng của CPTPP có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ.

Phản ứng này được WB cho là sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng, khuyến khích các công ty tư nhân trong nước hội nhập tích cực hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và do đó thúc đẩy phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Theo dự báo của World Bank, đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,5 USD/ngày so với kịch bản cơ sở. 

Mặc dù tất cả các nhóm thu nhập dự kiến sẽ được hưởng lợi, nhưng mức lợi ích đạt được sẽ cao hơn ở nhóm lao động trình độ cao thuộc top 60% nhóm phân bổ thu nhập cao nhất. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào nguồn vốn con người để tận dụng đầy đủ lợi ích từ Hiệp định.

Bên cạnh đó, ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia Kinh tế World Bank tại Việt Nam cho rằng, thực hiện các cam kết trong CPTPP sẽ thúc đẩy hơn nữa minh bạch hóa và xây dựng thể chế hiện đại tại Việt Nam.

“Hiệp định mới sẽ mang lại lợi ích trực tiếp cho Việt Nam nhờ tự do hóa thương mại và tăng cường tiếp cận thị trường. Quan trọng nhất là nó sẽ thúc đẩy và tăng tốc quá trình cải cách trong nước trong nhiều lĩnh vực khác nhau”, đại diện World Bank nhận định.

Các lĩnh vực này bao gồm cạnh tranh, dịch vụ (dịch vụ tài chính, viễn thông, gia nhập tạm thời của các nhà cung cấp dịch vụ), hải quan, thương mại điện tử, môi trường, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, tiêu chuẩn lao động, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hoá, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan (bao gồm các biện pháp SPS và TBT), các biện pháp khắc phục thương mại. 

Doanh nghiệp kỳ vọng lớn từ CPTPP

Theo kết quả một khảo sát toàn diện về doanh nghiệp trên toàn cầu của HSBC, khoảng hai phần ba (63%) doanh nghiệp tại Việt Nam tin rằng hiệp định CPTPP được ký ngày hôm nay, 9/3/2018 theo giờ Hà Nội, sẽ có tầm ảnh hưởng tích cực lên hoạt động kinh doanh của họ.

Chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp Việt Nam cho rằng, CPTPP sẽ tác động tiêu cực và 35% cho rằng hiệp định này không ảnh hưởng gì đến hoạt động kinh doanh của họ.

“CPTPP là một thỏa thuận lớn và tham vọng đối với Việt Nam. Nó có ý nghĩa to lớn đối với tăng trưởng, việc làm và các mức sống trong tương lai. Đây là thời điểm mà các doanh nghiệp và chính phủ cần tập trung vào việc thực hiện hiệp định này để có thể đạt được các lợi ích một cách toàn diện. Điều đáng khích lệ là rất nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu kỳ vọng đạt được những lợi ích từ hiệp định”, ông Winfield Wong, Giám đốc toàn quốc Khối dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp, HSBC Việt Nam cho biết.

Trong khi đó, World Bank dự báo CPTPP có khả năng sẽ kéo theo tăng FDI và tiếp tục mở rộng các ngành dịch vụ. Theo đó, sẽ có sự chuyển hướng dòng vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn sang các ngành công nghiệp thượng nguồn của các ngành được hưởng lợi nhiều như dệt, may mặc và da để tận dụng CPTPP.

Tuy nhiên, việc FDI tăng lên trong các ngành công nghiệp thượng nguồn không phải là không đi kèm chi phí. Do vậy, WB khuyến nghị Việt Nam cần đưa ra những chính sách khôn ngoan để lựa chọn công nghệ tiên tiến và dòng vốn FDI thân thiện với môi trường để tối ưu hóa tác động của hiệp định này.

Kinh nghiệm sau khi gia nhập WTO cho thấy, Việt Nam không thể tận dụng ngay lập tức lợi ích của việc gia nhập WTO để thu hút và tiếp nhận dòng vốn FDI lớn do thiếu năng lực để tạo điều kiện cho các công ty có liên kết toàn cầu tham gia chuỗi giá trị cao do chi phí hậu cần cao và cơ sở hạ tầng đường xá, điện, cảng biển, dịch vụ hậu cần còn yếu kém cũng như các vấn đề phía sau biên giới.

World Bank cho rằng việc cải thiện khả năng kết nối để hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) và giữ chi phí thương mại ở mức thấp là thực sự cần thiết trước những thách thức này. 

Các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài và trong nước tham gia vào các GVC cần phải có khả năng di chuyển hàng hoá qua biên giới một cách hiệu quả và đáng tin cậy. Điều này đòi hỏi cần có cả cơ sở vật chất và thể chế tốt.

Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, phần lớn chi phí tuân thủ cao đều liên quan đến các hàng rào phi thuế quan. Mặc dù đã có những tiến bộ gần đây trong cải cách hải quan và việc thực hiện cơ chế một cửa quốc gia và ASEAN, nhưng chi phí tuân thủ về thời gian và tiền bạc để thông quan hàng hoá trước và tại biên giới ở Việt Nam vẫn cao.

World Bank nhận định việc giải quyết vấn đề “nút cổ chai” quan trọng này sẽ giúp thực hiện các cam kết không chỉ trong khuôn khổ CPTPP mà cả trong Hiệp định Thuận lợi hoá Thương mại của WTO.