‘Điểm mới’ trong định hướng phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

Nhật Hạ - 20:02, 16/11/2022

TheLEADERMục tiêu trong Nghị quyết số 26 vừa được Bộ Chính trị ban hành có thể xem là nội dung hoàn toàn mới khi xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết.

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung bao gồm 14 tỉnh, thành phố ven biển từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, trong đó có 3 tiểu vùng là: Bắc Trung Bộ (gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị); vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); và vùng Nam Trung Bộ (gồm: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận).

Diện tích tự nhiên toàn vùng chiếm 28,9% diện tích của cả nước, với bờ biển dài gần 1.800 km, chiếm hơn 55% bờ biển cả nước (3.260 km), và nhiều cảng nước sâu, các đảo, cụm đảo và quần đảo quan trọng như Hoàng Sa, Trường Sa, Lý Sơn, Cù Lao Chàm...

Dân số của vùng năm 2020 khoảng 20,343 triệu người (chiếm 20,8% dân số cả nước). Trong vùng có nhiều tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú: chiếm 100% trữ lượng Cromit, 60% trữ lượng thiếc, 20% trữ lượng sắt, 44% trữ lượng đá vôi xi măng của cả nước, được phân bố khá tập trung tại một số địa phương, tạo thuận lợi cho việc khai thác, chế biến.

Ngoài ra, còn có titan ở Phú Bài (Thừa Thiên Huế), mănggan, than ở Khe Bố (Nghệ An), đá quý ở Quỳ Hợp, Quế Phong (Nghệ An); đất sét trắng (Quảng Bình), cát thuỷ tinh ở ven biển; dầu khí ở ngoài khơi và nhiều tiềm năng để phát triển thuỷ, hải sản, năng lượng gió, năng lượng mặt trời...

Vùng hiện có 9 sân bay, trong đó có 3 sân bay quốc tế; nhiều cảng biển lớn như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Tiên Sa, Dung Quất, Quy Nhơn, Vũng Rô, Nha Trang, Cam Ranh...

Đó là những điều kiện thuận lợi để vùng phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, nhất là kinh tế biển, và phát triển đồng bộ cả 3 lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, biển đảo của Tổ quốc...

Với những đặc điểm nêu trên, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước.

Đây là "mặt tiền" của quốc gia, "khúc ruột" của Tổ quốc là "cửa ngõ" ra biển cả, "bệ đỡ" cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối hành lang kinh tế Đông - Tây với đường hàng hải, hàng không quốc tế, nhiều cảng biển và cảng hàng không lớn; có vị trí địa lý chiến lược về giao lưu kinh tế Bắc - Nam và Đông - Tây; có quan hệ chặt chẽ với Tây Nguyên, với các nước bạn Lào, Đông Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan và Mi-an-ma.

Tuy nhiên, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ hiện vẫn là vùng có nhiều chỉ số phát triển thấp hơn mức trung bình của cả nước. Tiềm năng, lợi thế của vùng, nhất là lợi thế về kinh tế biển, chưa được khai thác hợp lý, phát huy có hiệu quả để trở thành nguồn nội lực quan trọng cho phát triển, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết tại hội nghị toàn quốc ngày 16/11.

Bên cạnh đó, kinh tế - xã hội vùng mới chỉ là phép cộng cơ học của các địa phương, chưa mang tính tổng thể dấu ấn của toàn vùng. Các cực tăng trưởng, trung tâm phát triển và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chưa thể hiện rõ vai trò là động lực tăng trưởng, đầu tầu dẫn dắt kinh tế vùng. Vùng miền núi phía Tây vẫn là khu vực khó khăn. Phát triển văn hoá, xã hội chưa đáp ứng kịp yêu cầu trong tình hình mới...

Do đó, ngày 3/11/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tổng bí thư cho biết nghị quyết mới sẽ tạo ra bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn nữa, có tính đột phá trong việc phát huy vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt và khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng, lợi thế phát triển to lớn của vùng.

Đồng thời tiếp tục phát huy những kết quả, thành tựu to lớn đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, vượt qua những khó khăn, thách thức mới đang đặt ra trong phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

‘Điểm mới’ trong định hướng phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ 1
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị toàn quốc ngày 16/11. Ảnh: Nhật Bắc

Về quan điểm và tư tưởng chỉ đạo, Tổng bí thư cho biết nghị quyết mới đã xác định rõ ràng, đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ.

Nghị quyết đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò chiến lược, đặc biệt quan trọng của vùng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là về kinh tế biển và quốc phòng, an ninh biển, đảo của Tổ quốc.

Bộ Chính trị đặc biệt nhấn mạnh: Cần phải đổi mới mạnh hơn nữa tư duy phát triển, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động, phát triển nhanh và bền vững vùng sao cho tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng và từng địa phương trong vùng; bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa các vùng, miền, góp phần nâng cao trình độ và thu nhập của người dân trong vùng, sớm bắt kịp với các vùng phát triển khác trong cả nước, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt của các địa phương trong vùng và cả nước.

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ phải phát triển phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược phát triển bền vững, tăng trưởng xanh quốc gia và Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Phát triển vùng mạnh về biển, giàu từ biển; phát triển và nâng cao hiệu quả các cơ sở hạ tầng hiện có; các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, hệ thống đô thị ven biển, các hành lang kinh tế; các cực tăng trưởng, các trung tâm vùng và vùng động lực; các ngành kinh tế biển.

Đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng sao cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế của vùng. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh trên cơ sở xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù, sát hợp với thực tế của Vùng để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, nhất là của khu vực kinh tế tư nhân, cho phát triển.

Sử dụng có hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng và biển; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường và hệ sinh thái biển; chủ động phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bảo tồn, tôn tạo và phát huy mạnh các giá trị lịch sử, văn hoá và truyền thống cách mạng vẻ vang. Đẩy mạnh việc liên kết nội vùng; giữa vùng với vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và các vùng khác trong cả nước. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nhất là với nước bạn Lào, các nước tiểu vùng sông Mê Công.

Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; chú trọng công tác giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bãi ngang, hải đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố, nâng cao tiềm lực, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Mục tiêu trong Nghị quyết 26 cũng là nội dung hoàn toàn mới, theo Tổng bí thư. Theo đó, mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 được xác định rất rõ.

Cụ thể, đến năm 2030, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ phải là vùng phát triển năng động, nhanh, mạnh và bền vững hơn nữa về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao trong phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn của cả nước với các khu kinh tế ven biển và hệ thống đô thị ven biển đạt chuẩn quốc gia và khu vực;

Đồng thời là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào; là nơi các giá trị văn hoá, lịch sử và hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao…

Đến năm 2045, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là một vùng phát triển nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực châu Á với các khu kinh tế ven biển hiện đại và hệ thống đô thị ven biển thông minh, bền vững, có bản sắc riêng, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu…

Về nhiệm vụ và giải pháp, nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới.

Cụ thể gồm tăng cường liên kết phát triển vùng; đẩy mạnh chuyến dịch cơ cấu kinh tế vùng, thúc đẩy kinh tế biển; phát triển mạnh hệ thống đô thị, nhất là hệ thống đô thị ven biển; đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, nhất là hạ tầng giao thông; tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; phát triển toàn diện văn hoá, xã hội vùng...

Để tổ chức thực hiện thật tốt, có kết quả thiết thực nghị quyết lần này của Bộ Chính trị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của vùng, cũng như mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển vùng, nắm thật vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí và hành động, quyết tâm của toàn vùng, từng địa phương trong vùng, cũng như của cả nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.

Xác định rõ đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của vùng và các địa phương trong vùng. Đồng thời, phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước: Cả nước vì vùng và vùng vì cả nước. Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng.

Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng. Tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hội nhập quốc tế.

Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự liên kết, hợp tác, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước, nhất là các tỉnh Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng để phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn, giàu có, trù phú hơn; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn mức bình quân chung của cả nước trên cơ sở từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng để vượt qua những khó khăn, thách thức và phát huy tốt hơn nữa tiềm năng, lợi thế to lớn vốn có của vùng.

Trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, cần đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng.

Tăng cường, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp cao và năng lực sáng tạo.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu ngay sau hội nghị này, cần khẩn trương ban hành Chương trình hành động và triển khai thực hiện nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng. Chương trình hành động phải bám sát các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết, bảo đảm sát hợp với từng địa phương trong vùng và tiểu vùng.

Các ban, bộ, ngành trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hoá nghị quyết và chương trình hành động của Chính phủ bằng các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao để triển khai thực hiện và thường xuyên có sự kiểm tra, đôn đốc; kiên quyết "không đánh trống bỏ dùi", "không đầu voi đuôi chuột", Tổng bí thư nhấn mạnh.