Nền tảng kinh tế số ‘Made in Vietnam’ vì sao chưa nở rộ?

Minh Nhật - 18:54, 21/04/2020

TheLEADERCác nền tảng kinh tế số của Việt Nam nếu không có sự sáng tạo đặc biệt hay tính địa phương cao sẽ không thể chen chân vào thị trường vốn đang bị nắm giữ bởi những nền tảng nước ngoài.

Báo cáo về nền kinh tế số Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain&Company năm 2019 từng chỉ ra rằng Việt Nam sẽ là nền kinh tế số tăng trưởng dẫn đầu khu vực cùng với Indonesia vào năm 2025.

Thời gian qua, sở hữu các nền tảng số hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực tương tự như trên thế giới, Việt Nam chứng kiến không ít những thành công và thất bại. 

Dịch vụ ví điện tử Momo tiếp cận hơn 10 triệu người dùng vào năm 2018 và thành công gọi vốn trị giá hơn 100 triệu USD từ Warburg Pincus, đồng thời lọt top 100 công ty công nghệ tài chính lớn nhất toàn cầu.

Ứng dụng nhắn tin, gọi điện miễn phí Zalo với cách thức hoạt động tương tự WhatsApp của Facebook đã chứng kiến doanh thu tăng trưởng ở mức 20% trong năm 2019 và lợi nhuận trước thuế tăng 1,5 lần lên mức 641 tỷ đồng.

Tuy vậy, không ít tên tuổi từng được kỳ vọng sẽ bứt phá lại nhanh chóng đi lùi hoặc thậm chí biến mất.

Tại tọa đàm trực tuyến “Xây dựng các nền tảng số riêng của Việt Nam – Ý tưởng và tính khả thi”, các chuyên gia đều đồng ý rằng, những nền tảng Việt xây dựng dựa trên khung của thế giới nếu không có tính sáng tạo đặc biệt hoặc tính địa phương cao, ắt hẳn sẽ không thể tham gia vào thị trường mà những “tay chơi ngoại quốc” đã chiếm vị trí độc tôn.

Đơn giản nếu Facebook, Twitter đã được phát triển thân thiện với người dùng Việt, cùng với sở hữu lượng thông tin khổng lồ từ hàng tỷ người dùng qua nhiều năm, các nền tảng Việt tương tự sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn.

Trong khi đó, Momo chiếm ưu thế hơn so với các nền tảng nước ngoài như Paypal vì hệ thống ngôn ngữ, giao diện gần gũi với người Việt, khả năng kết nối với nhiều ngân hàng nội địa thông qua hệ thống thẻ tín dụng mà phần đông người Việt sở hữu. Tương tự như vậy, so với WhatsApp, Line, Kakao Talk, Zalo chiếm được ưu thế nhờ thân thiện với người Việt từ ngôn ngữ, giao diện hay phương thức cài đặt.

Theo ông Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch hội đồng quản trị của UPGen, những nền tảng Việt Nam chưa có nhưng cần thiết vì phục vụ cho sản xuất kinh tế thì cần phải có; còn những nền tảng chỉ phục vụ cho xã hội thì nên dùng các nền tảng hiện tại đã có.

Ông đánh giá tinh thần khởi nghiệp của thanh niên Việt Nam hiện nay đang rất tốt nhưng các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) chưa được cổ vũ, tạo điều kiện nhiều. Chính phủ nên đưa ra các chính sách tạo ra các sân chơi công bằng chứ không phải cào bằng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh thích hợp.

Ông Trịnh Minh Giang, Chủ tịch Venture Management Consulting Group, cho rằng các startup mới hiện nay có ít sự sáng tạo nên có thể khó cạnh tranh với các nền tảng khác trên thế giới.

Cùng với đó, các startup cần một hạ tầng tạo điều kiện cho việc chịu làm, chịu phát triển và chịu rủi ro khi sáng lập trên các nền tảng.

Các chuyên gia cho rằng, các nền tảng muốn vươn ra ngoài nước, trước hết nên đảm bảo sự sinh tồn tại thị trường thân quen nhất đó là thị trường nội địa, và để cạnh tranh với những nền tảng đã có sẵn với đông người sử dụng, không còn cách nào khác ngoài ra tăng tính khác biệt và tính nội địa hóa.

Bài học dài hạn, nhất quán và có hệ thống từ Trung Quốc

TS. Phạm Sỹ Thành, nguyên Giám đốc Chương trình nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách, cho rằng sự thành công của kinh tế nền tảng, kinh tế số của Trung Quốc xuất phát từ một số đặc điểm đặc thù của thị trường này.

Quy mô 1,4 tỷ dân Trung Quốc cho phép bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể thử nghiệm với chi phí thấp, giúp doanh nghiệp tồn tại khi khoảng không khai thác còn rất khổng lồ.

Trong khi đó tại Việt Nam, một hoạt động khi muốn có đầu tư cần phải có đủ lượng quy mô và khách hàng và không phải thời điểm nào cũng tìm được quy mô khách hàng như vậy. Do đó, những người làm kinh doanh, làm đầu tư nhận thấy ý tưởng không khả thi.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng xây dựng và phát triển trên chủ nghĩa bảo hộ - một thực tế đòi hỏi hai năng lực là năng lực mặc cả của chính phủ trong phân chia lại lợi ích của các nhóm lợi ích cũng như năng lực kỹ thuật để xây dựng hệ thống mô phỏng.

“Thế nhưng Việt Nam hiện nay thì không có cả hai điều đó. Chúng ta có thể khả thi về mặt kỹ thuật nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như để một doanh nghiệp trong hệ sinh thái trong nước xuất hiện mà gạt bỏ những doanh nghiệp khác”, ông Thành chia sẻ.

Tuy nhiên, ông Thành cũng nhấn mạnh sự cạnh tranh thị trường sẽ giúp khẳng định những doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Dù cho cách thức tạo ra lợi thế cạnh tranh ra sao, điều khác biệt lớn nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như rất nhiều nước khác là Trung Quốc biết rất rõ họ muốn cái gì mà Việt Nam lại chưa có được.

Điều quan trọng cho phát triển kinh tế số là cần những người thực sự hiểu cách thức và tầm quan trọng bởi chỉ khi biết muốn làm gì thì mới tìm ra cách và điều này được Trung Quốc làm một cách dài hạn, nhất quán và có hệ thống.

Chính vì vậy, Chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam phải thực sự biết và hiểu rõ về nền tảng đang cần thiết với Việt Nam. Chính phủ phải có các quyết tâm dài hạn nhất quán để doanh nghiệp xác định được họ nên làm gì. Chính phủ khi hoạch định chính sách phải thay đổi tư duy để tạo điều kiện tối ưu hoá các nguồn lực vật lý một cách hiệu quả nhất, ông Thành khuyến nghị.

Chia sẻ cùng quan điểm, ông Giang cho rằng nếu Nhà nước đưa ra được các chính sách dài hạn thích hợp như Singapore giúp đỡ các startup thì những doanh nghiệp này có thể thực sự thành công.