Thoái vốn doanh nghiệp nhà nước: 'Càng để lâu càng lỗ'

Thu Phương - 08:48, 09/08/2019

TheLEADERTheo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, việc chậm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước càng lâu đồng nghĩa với khả năng gây thất thoát ngân sách càng lớn.

Thoái vốn doanh nghiệp nhà nước: 'Càng để lâu càng lỗ'
Lợi nhuận Habeco giảm mạnh từ 1.100 tỷ đồng năm 2014 xuống còn 310 tỷ đồng theo số kế hoạch năm 2019

Khi nhắc đến cổ phần hóa, thoái vốn, một trong những mục tiêu quan trọng nhất là nâng cao hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện đang được đánh giá là quản trị yếu kém và hiệu quả thấp. Song, thực tế không ít doanh nghiệp lại đang trong tình trạng bán nhiều lần không ai mua hoặc không bán được do còn vướng mắc, tồn đọng chưa giải quyết được.

Những dự án như nhà máy Bột Giấy Phương Nam, Công ty Gang thép Thái Nguyên là ví dụ điển hình. Số liệu tại Diễn đàn M&A Vietnam cũng cho thấy, so với thời điểm 2016 - 2017, cổ phiếu của một số doanh nghiệp có vốn nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực vốn rất hấp dẫn nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư ngoại như dược phẩm, công nghiệp nhựa, bia rượu nước giải khát đang giảm dần.

Nhiều thương hiệu đình đám một thời hiện đã bắt đầu hoặc đang có dấu hiệu lụi tàn như Công ty cổ phần Cồn Rượu Hà Nội (Halico). Năm 2011, công ty này đã có đại gia ngoại mua 30% cổ phần với giá hơn 200.000 đồng/cổ phiếu. Tròn 1 năm trước lên sàn với giá 31.000 đồng/cổ phiếu nhưng hiện chỉ còn 12.000 đồng/cổ phiếu và hoàn toàn không có giao dịch. Công ty hoạt động lỗ liên tục từ 2015 đến nay.

Công ty mẹ của Halico là Habeco cũng xuống dốc, lợi nhuận sau thuế giảm từ 1.100 tỷ đồng năm 2014 xuống còn 310 tỷ đồng theo số kế hoạch năm 2019, thị phần giảm từ 21% xuống còn 16%.

Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, đối với những công ty này, nếu Nhà nước không có cơ chế đặc thù để xử lý dứt điểm khó khăn vướng mắc để thoái vốn càng nhanh càng tốt, thì chắc chắn bất lợi và thiệt hại về ngân sách sẽ càng nhiều. Trong nhiều trường hợp, chậm cổ phần hóa, thoái vốn cũng đồng nghĩa với khả năng gây thất thoát cho Nhà nước càng lớn.

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: 'Càng để lâu càng lỗ'
TS. Ngô Trí Long

Đáng lo ngại hơn, theo ông Long, sự chậm trễ trong cổ phần hóa, thoái vốn dễ dẫn đến tâm lý hoạt động cầm chừng chờ đợi, thậm chí là bất an của chính đội ngũ quản lý và người lao động, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã yếu kém sẽ lại càng yếu kém hơn và Nhà nước sẽ càng khó khăn hơn khi thoái vốn.

Tại Diễn đàn Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ngày 8/8 vừa qua, một vấn đề nan giải nữa đối với việc cổ phần hoá doanh nghiệp được ông Long chỉ ra là Nhà nước còn nắm tỉ lệ sở hữu lớn sau cổ phần hoá khiến doanh nghiệp nhà nước khó thay đổi về chất.

Qua theo dõi diễn biến trên thị trường chứng khoán trong hơn ba năm qua, trong tổng số 25 tổng công ty thuộc diện thoái vốn giai đoạn 2017 - 2020 có 20 tổng công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong khi đó, chỉ có một tổng công ty đã thực hiện thoái hết vốn nhà nước là Tổng công ty CP Đầu tư phát triển xây dựng. Còn lại, có đến 8 tổng công ty gần như không có giao dịch cổ phiếu hoặc giao dịch không đáng kể.

Những doanh nghiệp này đều có một đặc điểm chung là Nhà nước vẫn đang nắm từ 80% đến 98% tổng số cổ phần. Trong khi đó, không có nhiều biến động tích cực nào về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này sau cổ phần hóa, thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn kinh doanh bết bát, kém hiệu quả hơn.

Trên thực tế, sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân vào khu vực doanh nghiệp nhà nước còn rất hạn chế. Tnh đến hết năm 2017 tỷ lệ vốn nhà nước thực bán qua cổ phần hoá và thoái vốn chỉ chiếm khoảng 7,5% của tổng số vốn nhà nước nắm giữ. Trong giai đoạn 2011 – 2016, trong số 426 doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược chỉ nắm giữ 7,3% vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần hóa.

Điều này đã dẫn đến một thực tế đáng quan ngại là doanh nghiệp nhà nước không có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản trị, nhân sự, là những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, việc tham gia vào hội đồng quản trị của nhà đầu tư chiến lược chỉ mang tính hình thức vì tỉ lệ cổ phần nắm giữ cũng chưa quá được 35% để có tiếng nói trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.

Theo ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa đạt được mục tiêu đề ra ban đầu. Hiện một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành chế độ báo cáo.

Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa.

Mặt khác, nhiều doanh nghiệp chậm đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của thị trường, hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các doanh nghiệp này.

Nhiều bài học về cổ phần hoá cần nhìn nhận lại

Nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, ông Ngô Trí Long cho rằng, Bộ Tài chính cần xem xét khi hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.

Trước hết, cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của bộ ngành và các bên liên quan trong cổ phần hóa, thoái vốn. Tránh tư tưởng đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong xử lý công việc, không “tròn vo, đẩy công văn xin ý kiến vòng quanh” gây ách tắc, trì trệ.

Thứ hai, thời gian vừa qua, nhiều vụ việc bán cho nhà đầu tư chiến lược trong nước cũng đã để lại những bài học như trường hợp Hãng phim truyện Việt Nam (VFS) - một thương hiệu điện ảnh có tuổi đời gần 60 năm. Nhà đầu tư chiến lược là Tổng công ty Vận tải thủy (Vivaso) không hề có kinh nghiệm và khả năng trong lĩnh vực sản xuất phim.

Không ít nhà đầu tư chiến lược Việt khác tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước chỉ nhằm mục đích chính là bất động sản và những khu đất vàng hơn là nhằm vào thương hiệu hoặc ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp.

Do đó, ông Long cho rằng, trước mỗi thương vụ cổ phần hóa, việc thực hiện điều tra chi tiết về nhà đầu tư chiến lược tiềm năng là rất cần thiết. Việc lựa chọn nhà đầu tư nội hay ngoại sẽ không thực sự quan trọng bằng việc đánh giá, lựa chọn được nhà đầu tư với công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm với thị trường Việt Nam, có cam kết gắn bó với thị trường Việt Nam trong dài hạn, có chiến lược phát triển dựa trên những sản phẩm thuần Việt. 

Có như vậy thì quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại đoanh nghiệp mới thực sự trở thành công cụ hiệu quả giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Để nâng cao hiệu quả quản lý và thoái vốn nhà nước, ông Trần Nguyên Nam, Phó trưởng ban phụ trách Ban kế hoạch tổng hợp SCIC cũng cho rằng, Chính phủ cần tạo môi trường để tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động kinh doanh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Các cơ quan quản lý cần xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước một cách tổng thể; các bộ, địa phương thực hiện nghiêm túc việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao về SCIC.

Riêng đối với quá trình cổ phần hóa, SCIC đề xuất cơ quan có thẩm quyền sớm phê duyệt phương án sắp xếp nhà đất và phương án sử dụng đất doanh nghiệp. Sớm ban hành các thông tư hướng dẫn về phê duyệt phương án sử dụng đất, xử lý về các vấn đề phát sinh liên quan đến việc xây dựng phương án cổ phần hóa, chính sách đối với người lao động dôi dư.

Mặt khác, ông Nam cũng kiến nghị cần tiếp tục tách bạch quá trình bán vốn và việc thu hồi nợ theo hướng việc theo dõi và thu hồi nợ cần được coi là công việc thường xuyên cả trước, trong và sau khi bán cổ phần đối với các doanh nghiệp.