Triển vọng lợi nhuận kém tươi sáng của ngành ngân hàng

Trần Anh - 15:34, 29/11/2022

TheLEADERSuy thoái kinh tế thế giới, xu hướng tăng tỷ lệ chi phí tín dụng và tỷ lệ trích lập phòng sẽ hạn chế phần nào triển vọng định giá và tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng quý IV/2022 và năm 2023.

Trong báo cáo ngành mới nhất của Công ty Chứng khoán BIDV (BSC), các chuyên gia đã chỉ ra một số cơn gió ngược chiều có thể ảnh hưởng lên ngành ngân hàng trong năm 2023 như suy thoái kinh tế thế giới, xu hướng tăng tỷ lệ chi phí tín dụng và tỷ lệ trích lập phòng sẽ hạn chế phần nào triển vọng định giá và tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng quý cuối năm nay và năm 2023.

Về trái phiếu doanh nghiệp, tỷ trọng nắm giữ trong các ngân hàng thể hiện sự phân hóa và chỉ tập trung vào 4 ngân hàng thương mại cổ phần.

Tính đến hết quý III/2022, tổng dư nợ trái phiếu doanh nghiệp nắm giữ trong danh mục đầu tư của một số ngân hàng niêm yết lớn ở mức 218.221 tỷ đồng (tương ứng với 2,2% tổng dư nợ tín dụng các ngân hàng thống kê), giảm 6% so với quý II/2022 về quy mô.

Hiện nay, Nghị định 153 đang ảnh hưởng đến dòng tiền của nhóm doanh nghiệp bất động sản do tính chất sử dụng đòn bẩy cao cùng việc phát hành nhiều trái phiếu nhằm đảm bảo nguồn trả nợ và thanh khoản. Tuy nhiên, các chuyên gia BSC cho rằng với danh mục đầu tư trải dài nhiều ngành cùng việc chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu cho vay, tác động rủi ro đến an toàn hệ thống ngành ngân hàng là không lớn.

Mặc dù vậy, rủi ro về việc trích lập dự phòng các khoản đầu tư này sẽ tạo áp lực lên tăng trưởng lợi nhuận một số ngân hàng quý IV và năm 2023.

Cũng trong quý III, tỷ lệ CASA các ngân hàng tiếp tục ghi nhận đà giảm nhẹ chủ yếu do hết hạn mức tăng trưởng tín dụng và bối cảnh lãi suất huy động có xu hướng tăng. Xu hướng này có thể tiếp tục trong quý IV.

Ngoài ra, trong quý III/2022, Ngân hàng nhà nước đã có quyết định điều chỉnh tăng lãi suất điều hành dưới áp lực từ FED tăng lãi suất và xu hướng đồng USD mạnh lên, theo đó xu hướng CASA giảm có thể tiếp tục diễn ra.

Một số ngân hàng có lợi thế về tỷ lệ CASA cao (hơn 30%), tỷ lệ LDR thấp sẽ giúp cho các ngân hàng này có chi phí vốn thấp, từ đó giúp gia tăng khả năng chống chịu tốt trước xu hướng chi phí huy động tăng và duy trì NIM ở mức tốt hơn các ngân hàng còn lại.

NIM hệ thống ngân hàng được dự báo duy trì ở mức 3,7% trong năm 2022 do sự phục hồi của nền kinh tế giúp tăng trưởng tín dụng cao, đặc biệt tập trung vào nhóm SME và cá nhân với NIM cao; lãi suất cho vay phục hồi sau thời gian hỗ trợ và CASA tăng trong năm 2022 giúp giảm chi phí vốn.

Tuy vậy, với việc tăng lãi suất điều hành trong tháng 9, NIM ngân hàng sẽ chịu áp lực giảm trong ngắn hạn khi lãi suất huy động đang có xu hướng tăng trong khi đó dư địa tăng trưởng tín dụng sẽ bị hạn chế.

Mức giảm NIM cũng sẽ tương đối phân hóa giữa các ngân hàng với nhau phụ thuộc vào tỷ lệ CASA , tỷ lệ LDR và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung hạn và dài hạn.

Về chất lượng tài sản, các ngân hàng vẫn vẫn đang quản lý chất lượng tài sản tốt. Mặc dù có sự ảnh hưởng giảm chất lượng tài sản do ảnh hưởng bởi Nghị định 65 mới và kết thúc Thông tư 14 về tái cơ cấu nợ bị ảnh hưởng do COVID-19, với chính sách kiểm duyệt tín dụng chặt chẽ và tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao, các ngânhàng có thể quản lý chất lượng tài sản tốt và giữ ở mức như hiện nay (tỷ lệ nợ xấu nội bảng xấp xỉ 1,4%). 

Một số ngân hàng đã tăng trích lập dự phòng, và cải thiện mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu. Điều này giúp các ngân hàng có bộ đệm dự phòng lớn, phòng trừ rủi ro do biến động thị trường trong thời gian tới.

Theo BSC, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo chuẩn Basel II tiếp tục được giữ ở mức cao, các tỷ lệ đều đảm bảo theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và kỳ vọng điều này sẽ được giữ vững trong tương lai với các kế hoạch tăng vốn, từ đó giúp tăng trưởng quy mô và lợi nhuận của các ngân hàng.