Ba gợi ý giúp kinh tế Việt Nam tiếp tục ‘lội ngược dòng’

Kiều Mai - 12:36, 19/09/2022

TheLEADERChỉ khi các chỉ số vĩ mô được giữ ổn định, nền kinh tế mới hội đủ năng lực chống chịu, có dư địa để chủ động ứng phó có hiệu quả với các diễn biến bất ngờ và phục hồi nhanh chóng sau các biến động đó.

Nhiều áp lực bủa vây hậu Covid-19

Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế – xã hội Việt Nam 2022 mới đây, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đánh giá tình hình thế giới và trong nước thay đổi rất nhanh, nhiều biến động, bất ổn, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó dự báo.

Tuy đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát trên phạm vi toàn cầu, đa số nước đã nới lỏng các quy định phòng, chống dịch, song trên thực tế, dịch bệnh vẫn chưa chấm dứt, hệ luỵ đối với các mặt đời sống xã hội còn nặng nề.

Đặc biệt, môi trường phát triển và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới thật sự đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. 

Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã tạo ra cú sốc địa – chính trị sâu rộng, đẩy thế giới vào cuộc khủng hoảng năng lượng trầm trọng. Giá năng lượng tăng vọt, lạm phát chi phí đẩy trên toàn cầu.

Một số quốc gia, khu vực đã xuất hiện tình trạng “siêu lạm phát”, chứng kiến chỉ số CPI tăng cao nhất trong nhiều thập niên. Nguy cơ “vừa lạm phát, vừa đình trệ” đang diễn ra, với biểu hiện rõ nét là tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, xuất hiện những cảnh báo về một “siêu chu kỳ vĩ mô” mới đầy thách thức.

Cùng với đó, thị trường tài chính, thương mại và đầu tư toàn cầu đang chuyển sang một trạng thái mới với hai đặc trưng lớn: thời kỳ lãi suất thấp đã qua và thời kỳ đồng USD mạnh đã tới.

Ông Thắng đánh giá nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô trầm trọng hơn, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thời tiết và thiên tai khắc nghiệt… đang hiện hữu rất quan ngại ở nhiều nước.

Ba gợi ý giúp kinh tế Việt Nam tiếp tục ‘lội ngược dòng’
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: quochoi.

Vị này nhấn mạnh rằng, điều hết sức đặc biệt là ngược dòng bên ngoài, kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của thời kỳ đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh, và trong gần 9 tháng qua, tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng rất khả quan, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát có hiệu quả lạm phát, về cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn và được dự báo có mức tăng trưởng lạc quan 7,5% trong năm 2022.

“Tuy nhiên, chúng ta tuyệt đối không được chủ quan”, ông lưu ý. 

Trước những biến động khó lường cả về kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới, nếu không có sự chuẩn bị để ứng phó kịp thời, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có nguy cơ gặp nhiều khó khăn như đã diễn ra cách đây hơn 10 năm, thậm chí nghiêm trọng hơn sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 – 2009.

Các động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam đang chịu áp lực rất lớn từ bên ngoài.

Cụ thể, về xuất khẩu, mặc dù đạt được kết quả tích cực trong những tháng đầu năm, tăng trưởng xuất khẩu có thể giảm tốc do suy giảm kinh tế của các đối tác nhập khẩu chính, nhất là ba nền kinh tế lớn – Mỹ, EU và Trung Quốc.

Về đầu tư, việc chậm giải ngân vốn đầu tư công tạo ra những hệ luỵ dây chuyền, đang ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Khó khăn sẽ gia tăng nếu dòng vốn đầu tư gián tiếp đảo chiều nhanh chóng khi mặt bằng lãi suất trên thế giới tăng mạnh.

Chìa khoá để nền kinh tế Việt Nam tiếp tục “lội ngược dòng” thành công

GS.TS Nguyễn Xuân Thắng nhận định ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời ứng phó chủ động, linh hoạt với sự thay đổi nhanh chóng là chìa khoá để nền kinh tế Việt Nam tiếp tục “lội ngược dòng” thành công, và duy trì đà tăng trưởng trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến động.

Thực tiễn trước đây đã chứng tỏ rằng, chỉ khi các chỉ số vĩ mô được giữ ổn định, nền kinh tế mới hội đủ năng lực chống chịu, có dư địa để chủ động ứng phó có hiệu quả với các diễn biến bất ngờ và phục hồi nhanh chóng sau các biến động đó.

Ông Thắng đánh giá, nhìn ở góc độ tổng thể với tầm bao quát dài hạn hơn, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô không chỉ nằm ở chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ hay quản lý giá cả, mà còn nằm ở việc tháo gỡ những điểm nghẽn để nền kinh tế vận hành thông suốt, các doanh nghiệp tự tin đưa ra các quyết định kinh doanh và đầu tư, khơi thông dòng chảy trên thị trường và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội.

Theo đó, giải phóng các nguồn lực và mở rộng các động lực tăng trưởng trong nước cần trở thành cách tiếp cận mới để củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, có nhiều tác động tiêu cực, khó lường.

Ông cho rằng, có ba vấn đề nổi bật cần tiếp tục tập trung thảo luận, làm sâu sắc hơn, nhằm đưa ra những giải pháp để kinh tế – xã hội Việt Nam phục hồi và phát triển.

Thứ nhất là tiếp tục cải cách thể chế, tập trung vào ba điểm đột phá. Đó là hoàn thiện khung khổ thể chế, pháp luật về quản lý đất đai, nhất là các quy định liên quan đến công tác định giá, đấu giá đất và phát triển thị trường bất động sản để khai thác hiệu quả nguồn lực quan trọng của nền kinh tế.

Cùng với đó, hoàn thiện cơ chế đối tác công tư để phát huy vai trò của kinh tế tư nhân và tăng cường phân cấp, phân quyền, giao các địa phương có đủ điều kiện chủ động thực hiện các dự án đầu tư, tháo gỡ vướng mắc về thủ tục, quy định để các địa phương sớm triển khai, hoàn thành các dự án trọng điểm, như sân bay, cảng biển, các công trình hạ tầng khác.

Thứ hai là đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chương trình, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, mở rộng sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội sau đại dịch.

Không chỉ vậy, cần triển khai có hiệu quả gói phục hồi kinh tế – xã hội, tập trung vào các lĩnh vực cấp bách và có khả năng hấp thụ tốt nhanh và lan tỏa tốt, như chi cho đầu tư hạ tầng đã hoàn thành cơ bản các thủ tục, nhất là các dự án có tính liên vùng, các chương trình trợ cấp, hỗ trợ người lao động.

Thứ ba là mở rộng không gian phát triển bên trong nền kinh tế, tăng cường liên kết vùng để tạo sự đồng bộ và mở ra một không gian mới, động lực mới cho sự phát triển vùng, các địa phương trong vùng và nền kinh tế quốc gia.

Đặc biệt, ưu tiên tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển Hà Nội và TP.HCM – hai đầu tàu kinh tế gắn liền với các vùng xung quanh, cũng như chú trọng mở ra một số tuyến và điểm đột phá phát triển như các tuyến hành lang kinh tế dọc các trục giao thông, tuyến cao tốc, các khu kinh tế cửa khẩu…