Chủ động triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị về thu hút đầu tư nước ngoài

TS. Phan Hữu Thắng* - 11:01, 20/12/2019

TheLEADERNghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 là một trong những nghị quyết có ý nghĩa quan trọng.

Chủ động triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị về thu hút đầu tư nước ngoài
TS. Phan Hữu Thắng

Nghị quyết này sẽ thúc đẩy hoạt động thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn tới một cách đúng hướng, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, bền vững hơn trên mọi góc độ của đất nước, khuyến khích và bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.

Tháng 12/1987, Quốc hội thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ðây là sản phẩm đầu tiên của công cuộc đổi mới và cũng là đạo luật đầu tiên cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường và nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, tuân thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

Ngay tại thời điểm đó, Luật đã điều chỉnh không chỉ những vấn đề có liên quan đến hình thức, lĩnh vực, địa bàn đầu tư, chính sách áp dụng đối với đầu tư nước ngoài, mà còn quy định cả việc thành lập, tổ chức và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 liên tục được sửa đổi, bổ sung ở các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và được Quốc hội ban hành, trở thành Luật đầu tư năm 2005. Những nội dung của Luật đầu tư nước ngoài trước đây và Luật đầu tư hiện nay luôn là sự thể chế hóa đường lối, quan điểm đổi mới của Ðảng về kinh tế đối ngoại và hợp tác đầu tư với nước ngoài. 

Theo đó, tư tưởng chỉ đạo nhất quán là thông qua việc xây dựng và hoàn thiện Luật Ðầu tư để tạo dựng khung pháp lý ngày một rõ ràng, thông thoáng, thuận lợi hơn cho đầu tư và kinh doanh, tăng cường sự liên kết giữa kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với kinh tế trong nước, xây dựng một khung pháp lý thống nhất, phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế của Việt Nam, tiếp tục được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, và nhất thiết phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như bối cảnh quốc tế và thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Chủ động, trách nhiệm tổ chức triển khai Nghị quyết 50-NQ/TW
Việt Nam đã trải qua 30 năm thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài.

Nhìn lại hơn 30 năm thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài kể từ tháng 12/1987 đến nay, có thể khẳng định, Việt Nam rất thành công trong thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài. 

Nhưng bên cạnh các thành công đó, việc thu hút, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn còn những hạn chế, yếu kém và phát sinh những vấn đề mới phức tạp liên quan đến chất lượng, hiệu quả, đến quốc phòng - an ninh… bởi tính hai mặt của dòng vốn đầu tư nước ngoài và do hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn hạn chế. 

Các tồn tại đã được chỉ ra nhiều năm qua nhưng chưa khắc phục được hết do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan được xác định là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài chưa theo kịp yêu cầu phát triển. 

Nếu không được hoàn thiện sớm, sẽ làm chệch định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như không thể có được dòng vốn đầu tư nước ngoài chất lượng, hiệu quả cao như chúng ta mong muốn khi thực hiện chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và những năm sau đó. 

Trước diễn biến khó lường của kinh tế chính trị thế giới, cùng với nhu cầu rất cao về vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn đến năm 2030, Việt Nam nhận thức rất rõ việc phải nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài, ngăn chặn được các dự án xấu, các nhà đầu tư không thiện chí và phải loại bỏ các hạn chế, yếu kém của đầu tư nước ngoài, sử dụng các đòn bẩy chính sách để hướng đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực mà Việt Nam mong muốn.

Từ đó tạo nên giá trị gia tăng, năng suất cao hơn, tăng cường liên kết với doanh nghiệp trong nước, bảo đảm đầu tư nước ngoài sẽ góp phần phát triển bao trùm và bền vững đối với nền kinh tế nhưng Việt Nam vẫn giữ vững tính độc lập và tự chủ của nền kinh tế.

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành vào đúng thời điểm cần thiết và có tầm quan trọng đối với tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời kỳ mới, cũng như để cộng đồng quốc tế thấy rõ sự nhất quán trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Ðảng và Nhà nước ta và Việt Nam tiếp tục là điểm đến tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài.

Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra đòi hỏi rất cao đối với bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cũng như đối với tất cả các bộ, ngành liên quan và các địa phương trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới. 

Nghị quyết đã xác định mục tiêu tổng quát là tạo lập môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN 4 trước năm 2021; thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030; mục tiêu cụ thể là vốn đăng ký giai đoạn 2021 - 2025: 150 đến 200 tỷ USD (30 đến 40 tỷ USD/năm); giai đoạn 2026 - 2030: 200 đến 300 tỷ USD/năm (40 đến 50 tỷ USD/năm); vốn thực hiện giai đoạn 2021 - 2025: 100 đến 150 tỷ USD/năm (20 đến 30 tỷ USD/năm); giai đoạn 2026 - 2030: 150 đến 200 tỷ USD/năm (30 đến 40 tỷ USD/năm)…

Để thực hiện được các mục tiêu cao như vậy, trong đó có nhiều mục tiêu có thời gian thực hiện rất ngắn, cần hoàn thành trước năm 2021, Nghị quyết 50-NQ/TW đã đề ra năm quan điểm chỉ đạo và bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó có ba quan điểm chỉ đạo có tính chất đặc biệt quan trọng so với cách đặt vấn đề trước đây: Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu; Ða phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư,… bảo đảm quốc phòng, an ninh,…nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế; Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước…

Trong bảy nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nêu trong Nghị quyết 50-NQ/TW, cũng như từ thực trạng tồn tại các hạn chế, yếu kém của đầu tư nước ngoài đến nay, cho thấy trước mắt cần tập trung vào bốn nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư; Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý, giám sát đầu tư; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng. 

Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tại Nghị quyết 50-NQ/TW, cần tiếp tục nghiên cứu sâu để xác định được các đề án cụ thể tương ứng với từng nhiệm vụ, giải pháp nhằm có thể tổ chức thực hiện Nghị quyết này phù hợp với quan điểm chỉ đạo và thời hạn hoàn thành đặt ra. 

Ðể Nghị quyết 50-NQ/TW nhanh chóng đi vào cuộc sống, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, các bộ, ngành liên quan, các địa phương phải chủ động với tinh thần trách nhiệm cao. 

Bên cạnh đó, cần chú ý tuyên truyền, phổ biến một cách dễ hiểu, thiết thực về nội dung, ý nghĩa của Nghị quyết đến cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, đến người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng và xã hội nói chung nhằm nâng cao nhận thức đúng, đầy đủ và nhất quán về vị trí, vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Như vậy sẽ tăng cường được sự giám sát của xã hội đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, góp phần vào nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư nước ngoài.

*Bài viết phản ánh quan điểm tác giả TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.