Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM, chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn đòi hỏi nỗ lực cả từ phía chính sách cùng sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp.
Chuẩn bị cho việc thực thi trách nhiệm thu gom, tái chế bắt buộc theo công cụ chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), nhiều doanh nghiệp đã triển khai sáng kiến tái thiết kế bao bì theo hướng giảm phát sinh rác thải, tăng khả năng xử lý và thu gom, đơn cử các hãng Coca Cola, La Vie… đã loại bỏ màng co nắp chai.
Tuy nhiên, theo các nhà tái chế, những sáng kiến đột phá hơn đối với bao bì khó có thể áp dụng bởi chưa có chính sách quy định chi tiết quy cách bao bì bền vững, chẳng hạn như yêu cầu keo dán nhãn phải dễ tan trong nước hay các cấu kiện của chai phải làm từ cùng một loại nhựa.
Điều này cho thấy, nỗ lực tự thân của doanh nghiệp khó có thể tạo ra đột phá nếu chính sách không theo kịp và phát huy vai trò điều phối, thúc đẩy triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn.
Chính vì vậy, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), thiết lập quan hệ hợp tác công – tư lành mạnh có ý nghĩa rất quan trọng đối với vấn đề phát triển kinh tế tuần hoàn.
TS. Trần Thị Hồng Minh tại Tọa đàm "Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh bền vững". Ảnh: Thời báo Ngân hàng
Bởi lẽ, như ví dụ ở trên, doanh nghiệp khó có thể tự triển khai hiệu quả kinh tế tuần hoàn nếu không có chính sách, do kinh tế tuần hoàn là khái niệm còn mới đối với doanh nghiệp và người lao động.
“Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn đòi hỏi các cơ quan hoạch định chính sách phải lắng nghe và đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp một cách thân thiện”, Viện trưởng CIEM nói.
Mặt khác, đi trên một con đường hoàn toàn mới là kinh tế tuần hoàn, doanh nghiệp khó tránh khỏi những rủi ro trong quá trình thiết kế hoặc thực thi. Như vậy, chính sách cần đóng vai trò như một “vùng đệm” để doanh nghiệp hạn chế rủi ro, qua đó mạnh dạn triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, nỗ lực của các chủ thể chính sách cũng không có nghĩa lý gì nếu thiếu vắng đi sự chủ động tham gia và thực hiện từ phía cộng đồng doanh nghiệp.
Sự chủ động này, theo bà Minh, xuất phát từ chính nhu cầu thường trực của doanh nghiệp là tìm kiếm giải pháp giảm chi phí, tăng năng suất, tăng lợi nhuận, tiếp cận thị trường, tiếp cận các nhà đầu tư cũng như nhu cầu đổi mới công nghệ.
Chính vì vậy, bà Minh nhấn mạnh, Việt Nam cần cân nhắc, tập trung xử lý các vấn đề bất cập trong hợp tác công – tư để phát triển kinh tế tuần hoàn, hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức của cả khu vực công và khu vực tư về mô hình này.
Nhận thức đúng và đồng nhất từ khâu thiết kế tới khâu triển khai, từ lãnh đạo, cấp quản lý tới từng ngành, lĩnh vực, từng doanh nghiệp và người dân là tiền đề quan trọng. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt khi nếp sản xuất, tư duy tiêu dùng cũ đã ăn sâu, trong khi công tác truyền thông nâng cao nhận thức vẫn còn hạn chế.
Trong tình hình đó, bà Minh cho rằng, để phát triển kinh tế tuần hoàn, chính sách cần nâng cao nhận thức về khía cạnh “kinh tế” của kinh tế tuần hoàn thông qua tiết giảm tài nguyên, tái tạo thiên nhiên, thay vì chỉ dừng ở nội dung cắt giảm khí thải.
Bên cạnh đó, khung chính sách và pháp lý về kinh tế tuần hoàn phải đủ rộng nhưng cũng đủ ổn định trong trung và dài hạn, có giải pháp gắn kết các lĩnh vực để tạo thuận lợi, xây dựng niềm tin cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Bởi đây là khái niệm mới nên sự đối thoại, trao đổi giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp, nhà đầu tư là rất quan trọng để tìm hiểu vướng mắc và kịp thời có giải pháp tháo gỡ.
Mặt khác, cần nghiên cứu ban hành cơ chế huy động sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công, mua sắm công xanh, từ đó có nguồn lực bổ sung quan trọng để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Doanh nghiệp bị bủa vây bởi các thông tin liên quan đến xu thế kinh tế tuần hoàn, quyết định triển khai mô hình này bởi FOMO (fear of missing out – sợ bị bỏ lỡ), dẫn đến những mô hình chắp vá và kém hiệu quả.
Doanh nghiệp nhỏ không sở hữu hệ sinh thái riêng hoàn chỉnh giúp triển khai các giải pháp kinh tế tuần hoàn, đòi hỏi phải có những hệ sinh thái dùng chung đóng vai trò hỗ trợ.
Kinh tế khó khăn, doanh nghiệp cắt phần chi phí cho phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn trước tiên, dù đây có thể là giải pháp cho doanh nghiệp trong bối cảnh biến động khó lường.
Quy hoạch hạ tầng sạc công cộng quyết định sự phát triển của doanh nghiệp xe điện, đồng thời mở ra thị trường rộng lớn và bền vững nếu hệ thống điểm sạc thuận tiện.
Việc đưa toà nhà AgriS Building vào vận hành là lời khẳng định mạnh mẽ của AgriS về chiến lược phát triển bền vững với tầm nhìn dài hạn, hiện thực hóa các cam kết xanh, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2035.
Khi áp lực chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp Việt Nam đang chủ động tiếp cận các công nghệ năng lượng xanh nhằm tối ưu hóa chi phí, giảm phát thải và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Với 51,9% thị phần sữa tươi và hai công ty đạt trung hòa carbon, đại diện Tập đoàn TH đã có những chia sẻ đáng chú ý về mô hình kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
Ánh sáng từ thủy điện nhỏ chưa đủ xóa đi bóng tối của hạn hán, mất mùa và nghèo đói nơi hạ lưu. Khi lợi ích chưa được chia đều, chia sẻ nước công bằng hơn không thể chỉ đặt lên vai doanh nghiệp.
Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, đây là công trình quan trọng, cần được hoàn thành kịp thời để phục vụ các hoạt động đối ngoại trong khuôn khổ APEC 2027.