Ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước hiện gần như không có khả năng cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm các nước ASEAN.
Dự thảo chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ được báo cáo Bộ trưởng Bộ Công thương trong tháng 9, trước khi trình Thủ tướng phê duyệt, ông Đặng Hoàng Mai, đại diện Bộ Công thương cho biết.
Dự thảo lần này xác định sản xuất ô tô là ngành mũi nhọn, dẫn dắt ngành công nghiệp phát triển, đóng góp vào sự phát triển của quốc gia, do đó cần chính sách mang tính ưu việt và bền vững.
Ông Mai cho biết, dự thảo đã mạnh dạn đề xuất chính sách cho các dòng xe điện khí hóa, thân thiện với môi trường, phù hợp với xu hướng phát triển trong tương lai, cũng như quá trình dịch chuyển nhiên liệu xanh trong giao thông.
Tỷ lệ nội địa hóa thấp
Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công thương) - đơn vị soạn thảo dự thảo chiến lược - nhìn nhận, ngành công nghiệp ô tô trong nước mặc dù đã có sự thay đổi nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém về cả nguồn lực và việc tăng tỷ lệ nội địa hóa. Những hạn chế này khiến cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước gần như không có khả năng cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm các nước ASEAN.
Tỷ lệ nội địa hóa thấp, nhiều mẫu xe chỉ khoảng 10%; giá thành cao hơn 20% so với các nước trong khu vực, và sự hạn chế của ngành công nghiệp phụ trợ, đang là những yếu tố căn bản làm giảm cạnh tranh của ngành công nghiệp ô tô.
Điển hình, các nhà máy tại Việt Nam mới sản xuất được 256 linh kiện, phụ tùng ô tô dưới chín chỗ, 13 linh kiện, phụ tùng xe trên chín chỗ và 18 linh kiện, phụ tùng xe ô tô tải, trong tổng số 2.000 – 3.000 linh kiện cấu thành một chiếc ô tô.
Doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tham gia cung ứng các chi tiết rất nhỏ, giá trị thấp của một chiếc xe, tập trung vào lĩnh vực gia công, sơn hàn, nhựa và cao su. Đáng chú ý, trong danh mục sản phẩm, không có sản phẩm nào thuộc các bộ phận quan trọng như hệ thống truyền động, hộp số, động cơ.
Chuỗi sản xuất chưa hoàn chỉnh
Hoạt động sản
xuất, lắp ráp ô tô trong nước mới chỉ ở mức độ lắp ráp đơn giản, chưa
tạo được sự hợp tác – liên kết và chuyên môn hóa giữa các doanh nghiệp sản xuất
- lắp ráp và sản xuất phụ tùng, linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các
nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.
Về lý thuyết, để sản xuất một chiếc ô tô cần từ 30.000 - 40.000 chi tiết, linh kiện khác nhau, cần hợp tác của rất nhiều ngành công nghiệp, như cơ khí chế tạo, điện tử, hoá chất. Tuy nhiên, việc liên kết giữa các ngành sản xuất còn lỏng lẻo, chưa kết hợp chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao.
Đến nay,
theo Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương, chỉ số ít nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào
chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Trong khi Thái
Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1 và 1.700 nhà cung cấp cấp 2 và 3. Con số này ở Việt Nam lần
lượt chưa đến 100 và 150.
Thêm nữa, hiện nay Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu để cung
cấp các loại vật liệu này. Khoảng 80-90% nguyên liệu chính
như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật phải nhập khẩu, hay
thậm chí cả vật liệu làm khuôn mẫu cũng phải nhập khẩu.
Mỗi năm,
các doanh nghiệp phải chi khoảng hơn 5 tỷ USD để nhập khẩu linh kiện và phụ
tùng phục vụ sản xuất, lắp ráp và sửa chữa xe. Điều này làm giảm tính chủ động
trong quá trình sản xuất, làm tăng chi phí sản xuất, đặc biệt giảm sức cạnh
tranh của các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô.
Chuỗi giá trị ngành ô tô nằm ở hai phần: Hạ nguồn gồm các khâu thiết kế, sản xuất linh kiện, phụ tùng cấp 1, cấp 2…, ước tính chiếm gần 60% giá trị thành phẩm xe, khâu này các doanh nghiệp ô tô nội địa Việt Nam hoàn toàn bị động.
Thượng nguồn gồm lắp ráp, phân phối, bán hàng và chăm sóc khách hàng (vỏ xe, lắp ráp, sơn, hoàn thiện), chỉ đóng góp khoảng 15% tổng giá trị xe, đây chính là khâu các doanh nghiệp Việt đang làm.
Thực tế tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến chín chỗ ngồi (ô tô con) có mục tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, tuy nhiên mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%. Trong đó Thaco đạt 15 - 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova; chắc chắn sẽ không đạt mục tiêu đề ra tại quy hoạch ngành ô tô.
Quy mô phát triển mới
Trong giai đoạn mới, Việt Nam đã có nhiều thay đổi cả về quy mô dân số, tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng. Quy mô, sản phẩm và thị trường tiêu thụ ô tô trong nước qua đó cũng đã khác nhiều so với trước đây.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp ô tô thế giới đang thay đổi mạnh mẽ cả về công nghệ sản xuất, chủng loại và mẫu mã tạo sản phẩm. Các nước trong khu vực đặc biệt Trung Quốc và Thái Lan, ngành ô tô đang có những phát triển rất ấn tượng.
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị, nhưng nguy cơ thị trường xe sản xuất trong nước bị giảm thị phần trên chính sân nhà là điều khó tránh khỏi, nếu như không có những cơ chế chính sách phù hợp.
Mục tiêu chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định rõ các chỉ tiêu về sản phẩm, sản lượng; thị phần xe sản xuất trong nước; xuất khẩu và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời dự thảo cũng định hướng phát triển các dòng xe theo hướng xanh và tiết kiệm năng lượng, thay thế các dòng xe sử dụng nguyên liệu hóa thạch.
Chiến lược cũng định hướng tăng thị phần sản phẩm ô tô sản xuất trong nước nhằm từng bước thay thế sản phẩm nhập khẩu; định hướng về công nghệ sản xuất và phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô; định hướng xuất khẩu và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành ô tô.
Sau nhiều năm thực hiện các chính sách hỗ trợ, ngành công nghiệp ô tô vẫn chỉ đạt mức nội địa hóa từ 7 – 10% với dòng xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia...
Một số chính sách ưu đãi về thuế phí cho ngành công nghiệp ô tô đã được ban hành lại đang nhận được đánh giá không có nhiều hiệu quả, thiếu tính khả thi, trong khi số khác vẫn mòn mỏi chờ được thông qua.
Sáng nay, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải và Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Quốc Khánh đồng chủ trì Hội thảo – Triển lãm Công nghiệp ô tô và cơ hội phát triển mạng lưới sản xuất tại Việt Nam.
Hội thảo “Hạnh phúc trong Giáo dục” 2024 là cơ hội để nhà lãnh đạo giáo dục, giáo viên, và phụ huynh cùng thảo luận, khám phá những giải pháp xây dựng môi trường học đường tích cực, bền vững.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được kỳ vọng sẽ thay đổi diện mạo hạ tầng giao thông và tạo cú hích lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, dự án này cũng đặt ra nhiều câu hỏi về khả năng tham gia của nhà thầu xây dựng trong nước.
Xây dựng môi trường làm việc đa dạng và hòa nhập không chỉ mang đến nhiều cơ hội cho tất cả mà còn tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.