Chỉ có 1% doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
Muốn phát triển được nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại phải lấy doanh nghiệp làm trọng tâm.
Khó khăn trong tiếp cận đất đai, rào cản về vốn, tín dụng cùng những rủi ro do thiên tai mang lại đã khiến nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư vào nông nghiệp.
Đó là khẳng định của ông Phạm Anh Tuấn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Liên hiệp Hợp tác xã tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam (UCA) trong buổi trò chuyện với TheLEADER xung quanh những khó khăn của ngành nông nghiệp và câu chuyện làm thế nào để phát triển nông nghiệp một cách bền vững.
Được biết, hiện chỉ có 1% trên tổng các doanh nghiệp cả nước đầu tư vào nông nghiệp. Theo ông đâu là nguyên nhân của thực trạng này?
Thống kê 1% doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào nông nghiệp, theo tôi thực tế chưa đến con số này. Bởi, tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp là câu chuyện doanh nghiệp dám đương đầu với rủi ro. Ngành nông nghiệp của chúng ta nói chung bị ảnh hưởng rất lớn vào thời tiết, khí hậu, đặc biệt là thị trường và tư duy sản xuất.
Việt Nam là một nước nông nghiệp nhưng quy mô sản xuất lại nhỏ lẻ và theo truyền thống. Tức là mùa nào thức nấy và "thích gì thì làm"… dẫn đến các doanh nghiệp tham gia vào ngành nông nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn.
Tôi lấy ví dụ, đơn hàng bao tiêu nông nghiệp khi doanh nghiệp hay đơn vị phân phối ký với khách hàng về nguyên tắc phải có đối ứng, có cam kết chịu phạt hợp đồng khi không hoàn thành. Tuy nhiên, với người nông dân thì vấn đề lại là "hôm nay được giá thì tôi bán cho anh, mai không được giá thì tôi không bán cho anh nữa, tôi bán cho thương lái lấy giá cao hơn", rồi hôm nay trời mưa, trời bão mất mùa dẫn đến phá vỡ hợp đồng… Chính điều này đã tạo nên tâm lý các doanh nghiệp không dám đầu tư vào nông nghiệp.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam vẫn theo lối tư duy truyền thống. Nếu như tại các nước phát triển, sản phẩm thịt sau khi giết mổ được đưa vào cấp đông và tiêu thụ dần, hạn mức sử dụng do đó có thể kéo dài lên đến một năm, thì tại Việt Nam, đại đa số người dân đều muốn mua được sản phẩm tươi sống, sử dụng trong ngày. Trong khi đó, sản phẩm nông nghiệp có hạn sử dụng chỉ được tính bằng giờ, “sáng thì sau chiều thì rác”, rất khó bảo quản và chiều lòng người tiêu dùng.
Một vấn đề nữa rất khó khăn đối các doanh nghiệp là việc tiếp cận các nguồn vốn, rào cản về tín dụng, rào cản về thế chấp, bảo lãnh. Nghị định của Chính phủ đã được ban hành với nhiều đãi cho doanh nghiệp, văn bản chỉ đạo nghị định nghị quyết hoàn toàn đúng nhưng chưa thiết thực.
Trong khi đó, các doanh nghiệp muốn sản xuát công nghệ cao, sản xuất quy mô lớn thì bắt buộc phải có vốn lớn. Tuy nhiên, họ không thể dùng đất sản xuất để thế chấp ngân hàng, họ không có tài sản thế chấp theo đúng quy định, đồng nghĩa với việc không tiếp cận được ngồn để đầu tư kinh doanh.
Ngoài ra, việc tích tụ ruộng đất, quy hoạch cánh đồng mẫu lớn cũng đang là bài toán khó không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn cả các cấp chính quyền. Về vấn đề này, Chính phủ cũng đã có những chỉ đạo cụ thể nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Đối với việc quy hoạch cánh đồng mẫu lớn của doanh nghiệp, theo ông đâu là giải pháp hiện nay?
Doanh nghiệp khó tích tụ ruộng đất bên cạnh nguyên nhân chủ yếu từ chính sách hạn điền trong Luật Đất đai còn do tâm lý của người dân. Sau khi chuyển giao đất cho doanh nghiệp, người dân có thể có tiền đền bù, nhưng họ mất đất, mất công cụ sản xuất truyền thống từ bao đời.
Do đó, không có gì tích tụ ruộng đất tốt hơn là mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Bởi theo mô hình này, người dân vẫn là chủ nhân mảnh ruộng của mình, họ có quyền sản xuất trên mảnh đất của mình. Bên cạnh đó, họ có cả một tổ chức đứng đằng sau giúp đỡ họ về kỹ thuật, hỗ trợ về sản xuất, đồng thời kết nối tìm đầu ra cho sản phẩm.
Chính vì vậy, tôi cho rằng bên cạnh việc sửa đổi chính sách cho phù hợp với tình hình thực tại, Nhà nước nên cần có cơ chế khuyến khích nhằm tăng cường số lượng các mô hình hợp tác xã tham gia sản xuất nông nghiệp. Biến người nông dân dần trở thành người những người công dân nông nghiệp.
Từ đó, chúng ta sẽ có những cánh đồng mẫu lớn, những vùng sản xuất quy mô lớn, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và vươn ra thị trường thế giới.
Thời gian vừa qua, câu chuyện khủng hoảng “được mùa mất giá, mất mùa được giá” dường như vẫn chưa khi nào hết nóng trên thị trường nông sản Việt với hàng loạt những cuộc giải cứu như giải cứu chuối, giải cứu dưa hấu hay gần đây nhất là giải cứu thịt lơn… Vậy ông nhìn nhận như thế nào về thực trạng này?
Tập quán sản xuất của người Việt Nam từ bao đời nay vẫn luôn là cái gì dễ thì làm, cái gì có lợi trước mắt thì lao vào làm, thậm chí là cái gì dễ thì mọi người đều làm, làm theo phong trào mà không cần biết đến đầu ra của sản phẩm. Từ thực trạng này dẫn đến việc sản xuất nông nghiệp mang tính chất manh mún, không chuyên nghiệp và thiếu bền vững.
Năm nay có thể thời tiết không thuận lợi, nông sản mất mùa, trong khi nhu cầu của thị trường lớn dẫn đến giá nông sản bị đẩy lên cao. Sang năm, bà con nông dân thấy vậy lao vào sản xuất, song sức tiêu thụ của thị trường có hạn dẫn đến dư thừa sản phẩm phải bán đổ bán tháo, thậm chí buộc tiêu hủy. Cuối cùng người chịu thiệt hại nặng nề nhất không ai khác chính là người nông dân sản xuất ra sản phẩm.
Vậy làm thế nào để khắc phục thực trạng này, thưa ông?
Để khắc phục tình trạng này, chúng ta cần có chiến lược phát triển nông nghiệp chuyên nghiệp theo hướng lấy thị trường làm trọng tâm. Trú trọng phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp chịu trách nghiệm bao tiêu sản phẩm, nghiên cứu thị trường đầu ra cho sản phẩm.
Qua đó, tạo thành một mạng lưới liên kết thu mua, cung ứng nông sản an toàn tại các tỉnh, liên tỉnh, vùng, liên vùng… đưa những sản phẩm từ nơi thừa về nơi thiếu, từ miền núi lên miền xuôi, từ miền xuôi về miền núi… tạo ra thế cân bằng trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Mô hình Liên hiệp hợp tác xã tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam (UCA) là một ví dụ. Trách nghiệm của hợp tác xã là điều tiết hoạt động sản xuất của người dân, lấy thị trường làm mệnh lệnh để xản xuất nông sản nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và tránh tình trạng dư thừa sản phẩm.
UCA hiện nay có hơn 200 hợp tác xã thành viên trên cả nước và phân đấu lên đến 1.000 hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian tới. Bà con nông dân khi tham gia vào các hợp tác xã theo mô hình này được cung ứng về giống, phân bón, vật tư, nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị… và tất cả sản phẩm của họ sau khi sản xuất ra lại quay lại cung ứng cho hệ thống hợp tác xã để phân phối nông sản. Từ đó tạo nên tính bền vững trong hoạt động sản xuất, góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Muốn phát triển được nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại phải lấy doanh nghiệp làm trọng tâm.
Năng suất lao động kém đang là rào cản lớn cho khát vọng bứt phá của Việt Nam, mà nguyên nhân đến từ cả quá trình công nghiệp hóa lẫn khu vực tư nhân.
Doanh nghiệp Việt đã đi xa bằng xuất khẩu nhưng để thật sự vươn tầm quốc tế, mũi nhọn chiến lược cần chuyển từ tăng kim ngạch sang tạo giá trị và vị thế.
CEO FPT Nguyễn Văn Khoa cảnh báo: nhiều doanh nghiệp đang đi chậm hơn Chính phủ và đứng ngoài cuộc cải cách số, ngay khi Chính phủ đẩy nhanh Nghị quyết 57 để tái định hình kiến trúc số quốc gia.
Đã đến lúc các công viên đô thị thôi chỉ là nơi dạo mát, mà trở thành “thỏi nam châm” du lịch và nguồn thu kinh tế?
Trong khi công nghiệp chế tạo là hạt nhân thực sự của một nền công nghiệp quốc gia, đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, thì trên thực tế vẫn chỉ đang gia công.
Đây là sự ghi nhận cho nỗ lực sáng tạo của Hãng hàng không quốc gia khi mang đến cho công chúng hành trình khám phá giàu trải nghiệm và cảm xúc.
Trong khuôn khổ phiên đối thoại cấp cao tại VPFS 2025, ông Đỗ Vinh Quang, Phó chủ tịch HĐQT Tập đoàn T&T Group, Chủ tịch HĐQT Vietravel Airlines đã đề xuất nhiều kiến nghị quan trọng liên quan tới phát huy nội lực doanh nghiệp.
Năng suất lao động kém đang là rào cản lớn cho khát vọng bứt phá của Việt Nam, mà nguyên nhân đến từ cả quá trình công nghiệp hóa lẫn khu vực tư nhân.
Ra nước ngoài khi vẫn chỉ là một doanh nghiệp nhỏ và không có kinh nghiệm quốc tế, AA Corporation mang theo hành trang ba chữ: tự tin, tự lực và tự cường.
SeASoul là thẻ Visa 2in1 đánh dấu sự kết hợp đặc biệt giữa SeABank và ca sỹ Mỹ Tâm. Hơn một chiếc thẻ thông thường, thẻ SeASoul mang đến trải nghiệm tài chính cảm xúc cho khách hàng với những quyền lợi vượt trội và hành trình sẻ chia giá trị cộng đồng đầy ý nghĩa.
Theo ông Nguyễn Bá Diệp, chiếu theo quy định hiện hành, một doanh nghiệp muốn IPO, đầu tiên là phải có lời, thứ hai là phải xóa bỏ tất cả các khoản lỗ lũy kế. Với điều kiện này, gần như các công ty công nghệ lớn trên thế giới đều không làm được, chứ chưa nói tới doanh nghiệp tại Việt Nam.
Tối 15/9, tại Trung tâm Triển lãm Việt Nam, triển lãm với chủ đề “80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” bế mạc sau gần 20 ngày diễn ra.