Thiết kế chính sách đặc thù cho điện khí và điện gió ngoài khơi

Nguyễn Cảnh - 14:20, 19/12/2023

TheLEADERBộ Công thương cho rằng, cần sớm có cơ chế, chính sách đặc thù cho các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi để thúc đẩy triển khai thực hiện đáp ứng tiến độ theo Quy hoạch điện VIII.

Theo quy hoạch điện VIII, từ nay đến 2030, tổng công suất nguồn điện từ các dự án điện gió ngoài khơi và điện khí sẽ chiếm khoảng 50% tổng công suất điện cần bổ sung.

Trong đó, dự kiến sẽ bổ sung khoảng 30.400MW điện khí và 6.000MW điện gió ngoài khơi (ĐGNK). Việc phát triển hai nguồn điện này sẽ giúp Việt Nam thực hiện được cam kết trung hoà carbon đến năm 2050. 

Các dự án điện khí là những nguồn điện chạy nền, linh hoạt, ổn định sẽ hỗ trợ cho các dự án điện gió và điện mặt trời để đảm bảo an ninh cung cấp điện.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên, việc phát triển hai nguồn điện này còn nhiều khó khăn, vướng mắc chưa được pháp luật hiện hành quy định cụ thể. 

Do đó, ông Diên cho rằng, cần sớm báo cáo Chính phủ để kiến nghị Quốc hội có ghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù cho việc triển khai các dự án điện khí và ĐGNK, đáp ứng tiến độ theo quy hoạch điện VIII.

Riêng các dự án ĐGNK đòi hỏi đưa vào danh mục dự án quan trọng quốc gia cần được áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.

Để thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án này, lãnh đạo Bộ Công thương yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), Tổng công ty khí Việt Nam, Tổng công ty điện lực Dầu khí khẩn trương rà soát các quy định của pháp luật, căn cứ thực tế triển khai các dự án, tham khảo kinh nghiệm của các nước có thế mạnh để có đề xuất, báo cáo cụ thể với Thủ tướng và Bộ Công thương trước ngày 20/12 tới.

Đồng thời, bộ cũng giao Cục Điện lực và năng lượng tái tạo chủ trì, phối hợp các đơn vị liên quan, báo cáo Chính phủ để kiến nghị Quốc hội xem xét, ban hành nghị quyết chuyên đề về các cơ chế chính sách đặc thù trong triển khai thực hiện các dự án điện khí và ĐGNK theo quy hoạch điện VIII.

Theo quy hoạch điện VIII thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng công suất đặt các nguồn điện đến 2030 là khoảng 150,5GW (gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay).

Trong đó, khoảng 30.400MW công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới với 10 dự án khí trong nước công suất 7.900MW và 13 dự án LNG công suất 22.800MW.

Tổng công suất các nguồn ĐGNK khoảng 6.000MW và có thể tăng lên trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý.

Để triển khai dự án điện khí đầy đủ các bước lựa chọn nhà đầu tư, lập, phê duyệt FS, đàm phán hợp đồng mua bán điện, thu xếp vốn vay và thực hiện hợp đồng EPC, thực tế cần từ 7-8 năm. Với các dự án ĐGNK, thời gian thực hiện cần 6 - 8 năm kể từ lúc khảo sát.

Do đó, Bộ Công thương đánh giá, việc triển khai các dự án điện khí, ĐGNK để đáp ứng tiến độ đưa vào vận hành trước năm 2030 là thách thức không nhỏ.

Thời gian gần đây, nhóm các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Tài nguyên và môi trường) đã thành lập bản đồ khu vực xây dựng các trang trại gió tiềm năng trong khu vực nghiên cứu, phản ánh tương đối đúng với bản đồ tiềm năng gió ngoài khơi tại Việt Nam trong phạm vi 200km thuộc chương trình hỗ trợ quản lý năng lượng của Ngân hàng thế giới công bố năm 2019.

Theo đó, diện tích tiềm năng cho ĐGNK đạt gần 116.000km2. Cụ thể, ĐGNK móng cố định (độ sâu mực nước dưới 50m) chiếm khoảng 35% phân bố tại các tỉnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Hơn 70.000km2 diện tích khu vực có tiềm năng xây dựng các điện gió móng nổi với độ sâu mực nước từ 50 – 1.000m, phân bố hầu như xa bờ các tỉnh, thành như Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Bạc Liêu.

Để phát triển ngành công nghiệp ĐGNK theo đúng các chiến lược, quy hoạch, Bộ Tài nguyên và môi trường cho rằng, các cơ quan quản lý cần xây dựng khung pháp lý cho năng lượng tái tạo và ĐGNK như luật và các văn bản nghị định, thông tư, tiêu chuẩn quốc gia.

Bên cạnh đó, đòi hỏi khoanh định chi tiết hóa diện tích các khu vực không gian biển kỹ thuật trên bản đồ biển, thuộc các tỉnh, thuộc các đới gần bờ, ngoài khơi; không gian biển cụ thể (tỉnh, tọa độ) theo quy hoạch điện VIII để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 bổ sung thêm 6.000MW, đến 2050 là 87 – 91,5 GW).

Quy hoạch không gian biển quốc gia cần xem xét không gian biển cho ĐGNK khoảng 90-100GW (cả ven bờ và ngoài khơi) với diện tích biển (định mức 10MW/1km2) khoảng 10.000km2. Mức tối đa có thể đến 20.000km2, tức 5 MW/km2 phân theo các lô, vị trí… Trong đó, có không gian biển cho điện gió xuất khẩu và cho nội địa.

Bên cạnh đó, cần luật hóa không gian biển đối với các ngành cố định như ĐGNK, nuôi biển, dầu khí, cáp biển, mạng internet, hàng hải, an ninh quốc phòng.

Như TheLEADER thông tin mới đây, một trong những lý do khiến Tập đoàn Orsted dừng phát triển điện gió ở Việt Nam có sự ảnh hưởng nhất định từ độ trễ của khung chính sách hướng dẫn, phát triển dành cho lĩnh vực này.

Đây cũng là một bài toán khó với Chính phủ và các cơ quan quản lý trước nguy cơ các tập đoàn đa quốc gia có thể "tháo chạy" khỏi thị trường Việt Nam bất cứ lúc nào nếu gặp trở ngại.

Về điện khí LNG, sau khi quy hoạch điện VIII được phê duyệt, Bộ Công thương cũng đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai các dự án điện LNG về đích đúng hẹn.

Cụ thể, tiến độ xây dựng, vận hành các nhà máy điện LNG có ý nghĩa quyết định tới an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030. Nếu dự án nào có nguy cơ chậm tiến độ, Bộ Công thương sẽ báo cáo Chính phủ, Thủ tướng đẩy lùi tiến độ của dự án đó và đẩy sớm các dự án dự phòng/hoặc tính toán các phương án khác thay thế để bảo đảm an toàn hệ thống và cung ứng điện cho đất nước.

Để bảo đảm các dự án điện khí được triển khai, thực hiện đúng tiến độ quy hoạch, Bộ trưởng đề nghị một số nội dung cụ thể đối với các địa phương và đơn vị có liên quan.

Với các dự án đã có chủ đầu tư, các địa phương đôn đốc tiến độ và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư triển khai dự án; kịp thời giải quyết hoặc hỗ trợ giải quyết những khó khăn, vướng mắc (nhất là về mặt bằng, hạ tầng, môi trường, thủ tục hành chính…) để không ảnh hưởng đến tiến độ dự án.

Yêu cầu các nhà đầu tư khẩn trương thực hiện dự án theo đúng tiến độ, yêu cầu trong chủ trương đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã được phê duyệt. Căn cứ quy định pháp luật và để bảo đảm an ninh năng lượng điện, cần kiên quyết thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nếu nhà đầu tư vi phạm các quy định/trì hoãn không triển khai dự án theo tiến độ đã được duyệt.

Thứ hai, đối với các dự án chưa có chủ đầu tư cần khẩn trương rà soát, bổ sung dự án vào quy hoạch tỉnh và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương để làm cơ sở triển khai thực hiện dự án theo quy định của Nhà nước.

Khẩn trương lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của dự án, triển khai các thủ tục cấp chủ trương đầu tư, lựa chọn chủ đầu tư có năng lực, kinh nghiệm thực hiện dự án điện sử dụng LNG và các hạ tầng liên quan, phấn đấu hoàn thành trong quý III/2023. Đẩy nhanh tiến độ lập và trình báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án, phấn đấu hoàn thành trong quý IV/2023.