Hàng triệu tấn tro xỉ nhiệt điện than không chỗ chứa
Hiện Việt Nam có 21 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, mỗi năm thải ra 16 triệu tấn tro xỉ.
Sáng 3/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Xây dựng tổ chức hội thảo “Sử dụng tro xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long”.
Theo Vụ Vật liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng, cả nước có 21 nhà máy nhiệt điện đốt than đang hoạt động và sử dụng một trong hai loại công nghệ đốt là đốt than phun PC và công nghệ lò hơi tầng sôi tuần hoàn CFB. Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/03/2016, dự kiến đến năm 2030, cả nước có 57 nhà máy nhiệt điện hoạt động.
Theo điều tra tính toán đến cuối năm 2017, lượng tro xỉ, thạch cao tồn chứa trên cả nước khoảng 40 triệu tấn và hàng năm thải ra trên 15 triệu tấn. Trường hợp các nhà máy nhiệt điện được đầu tư theo quy hoạch và lượng tro xỉ thải ra không được xử lý thì đến năm 2018 là 61 triệu tấn; đến năm 2020 là 109 triệu tấn, đến năm 2025 là 248 triệu tấn và đến năm 2030 là 422 triệu tấn.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có 3 cụm nhiệt điện sử dụng công nghệ đốt than phun PC bao gồm Nhiệt điện Duyên Hải I, Duyên Hải III vận hành từ năm 2016 đến đầu 2017 với tổng công suất phát điện là 1.445 MW, mỗi năm thải ra khoảng 1,8 triệu tấn tro xỉ.
Dự kiến đến năm 2020 sẽ có thêm các nhà máy nhiệt điện Long Phú I, Long Phú II, Sông Hậu I, Sông Hậu II, Duyên Hải III mở rộng hoạt động, nâng tổng công suất phát điện lên 5.505 MW; mỗi năm tiêu thụ khoảng 16,52 triệu tấn than và thải ra khoảng 4,13 triệu tấn tro xỉ, thạch cao. Từ sau năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm 9 nhà máy nhiệt điện trong vùng hoạt động, nâng công suất phát điện lên 18.225 MW, mỗi năm tiêu thụ khoảng 54,68 triệu tấn than và thải ra khoảng 13,67 triệu tấn tro xỉ, thạch cao.
Lượng tro xỉ, thạch cao sẽ tạo ra thách thức khi phải sử dụng diện tích đất khổng lồ để làm bãi chứa và nhiều áp lực môi trường khác, nguy cơ các nhà máy phải dừng sản xuất do không có đủ bãi chứa.
Để giải quyết bức xúc gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy nhiệt điện và phân bón hóa chất, Bộ Xây dựng tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1696 về một số giải pháp thực hiện xử lý tro xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, phân bón, hóa chất để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và qua 2 năm triển khai thực hiện Quyết định 1696 đã đạt được kết quả nhất định.
Mới đây, ngày 12/4/2017, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 452/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong các công trình xây dựng”. Thời gian thực hiện đề án này từ năm 2017 - 2020.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng, để đảm bảo an ninh năng lượng, đáp ứng nhu cầu điện tiêu thụ trong thời gian tới việc phát triển các nhà máy điện với công nghệ tham sạch sẽ tiếp tục được quan tâm phát triển. Theo đó, Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tập trung thực hiện đồng bộ giải pháp kỹ thuật để đảm bảo các nhà máy điện than gắn với mục tiêu phát triển bền vững bảo vệ môi trường; trong đó, lưu ý các nhà máy máy nhiệt điện than như loại bỏ các nhà máy điện than có công nghệ cũ, cải tạo công trình bảo vệ môi trường như khí thải, nước thải… Các nhà máy điện than hoàn thành phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động trên vùng khí thải, nước thải và truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên Môi trường các địa phương giám sát…
Cũng theo Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng, vấn đề tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện than đang là thách thức lớn cho sự phát triển của các nhà máy nhiệt điện than do thiếu cơ chế chính sách, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường phù hợp. Hội thảo này là dịp để các bộ, ngành thảo luận, trao đổi giải pháp cơ bản nhằm xử lý tro xỉ của các Nhà máy nhiệt điện ở Đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và việc sử dụng tro xỉ làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng tại Đồng bằng sông Cửu Long…
Tại hội thảo, đại diện các cơ quan trực thuộc Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, các chuyên gia trong và ngoài nước, đại diện các doanh nghiệp sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng đã trình bày các báo cáo nghiên cứu, các kinh nghiệm xử lý tro xỉ làm vật liệu xây dựng cũng như các văn bản, quy định mới về việc xử lý tro xỉ, thạch cao tại các nhà máy nhiệt diện, phân bón hóa chất…
Tiến sĩ Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng cho biết, theo tính toán lượng tro sỉ, thạch cao sử dụng để làm xi măng, san lắp, làm đường giao thông chống sạt lở… sẽ giúp tiêu thụ được 30% tổng lượng tro xỉ. Bên cạnh đó, dùng tro xỉ thay cho đất sét, làm nguyên liệu sản xuất gạch nung sẽ giúp tiêu thụ khoảng 15% tổng lượng tro xỉ… Vấn đề cần làm nhanh hiện nay là nhóm tiêu chí về tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật được ban hành trong năm nay và chậm nhất là trong năm 2018 sẽ có đầy đủ bộ công cụ kỹ thuật để xử lý các vấn đề tro xỉ, thạch cao.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, đối với Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I và Duyên Hải III trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 7 đối tác đã ký hợp đồng tiêu thụ khoảng 2,9 triệu tấn tro xỉ, bằng 210% tổng khối lượng tro xỉ trung bình hàng năm của 2 nhà máy và bằng 160% lượng tro xỉ đang lưu giữa tại bãi thải sỉ. Lượng tro xỉ được các đối tác mua để sử dụng làm phụ gia trong sản xuất xi măng.
Từ khi vận hành đến ngày 13/7/2017, hai nhà máy điện Duyên Hải đã xuất bán lượng tro xỉ tổng cộng là 134.196 tấn, bằng 7,1% tổng sản lượng tro xỉ từ khi vận hành của 2 nhà máy. Tổng Công ty Phát điện I đang nghiên cứu lập dự án đầu tư đường ống vận chuyển tro bay bằng khí nén ra cảng biển để giảm chi phí vận chuyển và tiếp cận các đối tác tiêu thụ với khối lượng lớn…
Hiện Việt Nam có 21 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, mỗi năm thải ra 16 triệu tấn tro xỉ.
Để xử lí lượng xỉ khổng lồ lên đến hàng chục triệu m3 trong quá trình luyện thép, Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã hoàn tất được việc xây một hệ thống kè lấn biển để chôn lượng xỉ thải lên tới hàng chục triệu tấn.
Dược liệu gắn với công nghệ cao, tạo giá trị lan tỏa là hướng đi của nhiều doanh nghiệp đồng hành với Đề án phát triển Trung tâm công nghiệp dược liệu tại Quảng Nam.
Thúc đẩy ngành công nghiệp nghiên cứu và sản xuất giống cây trồng cần sự chung tay của nhà nước, nhà trường, nhà khoa học cùng cộng đồng doanh nghiệp.
Quy hoạch hạ tầng sạc công cộng quyết định sự phát triển của doanh nghiệp xe điện, đồng thời mở ra thị trường rộng lớn và bền vững nếu hệ thống điểm sạc thuận tiện.
Việc đưa toà nhà AgriS Building vào vận hành là lời khẳng định mạnh mẽ của AgriS về chiến lược phát triển bền vững với tầm nhìn dài hạn, hiện thực hóa các cam kết xanh, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2035.
Khi áp lực chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp Việt Nam đang chủ động tiếp cận các công nghệ năng lượng xanh nhằm tối ưu hóa chi phí, giảm phát thải và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thị hiếu tiêu dùng thay đổi cùng năng lực công nghệ, khả năng xây dựng hệ sinh thái chưa đủ lớn đã đẩy các sàn thương mại điện tử nội địa bật ra khỏi cuộc chơi.
Thủ tướng yêu cầu tiếp nhận, xử lý ngay các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp về việc phải trả chi phí không chính thức.
Mặc dù vẫn còn những băn khoăn, lo ngại từ cộng đồng doanh nghiệp, song giới chuyên gia cho rằng hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự đột phá của Nghị quyết 68, cũng như cách làm luật lần này của các cơ quan quản lý nhà nước.
ACV đang lấy ý kiến về việc phân phối gần 21.200 tỷ đồng lợi nhuận chưa phân phối lũy kế đến 2023, bao gồm chia cổ tức bằng cổ phiếu gần 65%.
Theo ACBS, nếu HDBank hướng đến việc tìm kiếm cổ đông chiến lược sở hữu 15–20%, thì việc mở room ngoại lên 49% sẽ là “chìa khóa” giúp ngân hàng hiện thực hóa chiến lược tăng vốn.
VinFast hôm nay ra mắt dòng xe điện chở hàng cỡ nhỏ EC Van, hướng đến cuộc cách mạng xanh trong vận tải hàng hóa. Với tải trọng trên 600 kg cùng kích cỡ gọn gàng, khả năng vận hành linh hoạt, VinFast EC Van là lựa chọn tối ưu cho nhu cầu vận chuyển hàng quãng ngắn của các đơn vị kinh doanh, đồng thời là phương tiện sinh kế phù hợp cho kinh tế hộ gia đình.
Doanh nghiệp kỳ vọng sớm có chương trình hành động cụ thể, lộ trình rõ ràng, nhiệm vụ cụ thể và cần cơ chế phản hồi chính sách hiệu quả từ cộng đồng doanh nghiệp.