Quy hoạch dự án điện bỗng lùi 10 năm, nhà đầu tư Hàn ‘kêu cứu’

Nhật Minh - 09:35, 22/02/2022

TheLEADERTheo đại diện các doanh nghiệp Hàn Quốc đang đầu tư dự án điện tại Quảng Trị, dự án có thể trở thành bất khả thi trên thực tế nếu Quy hoạch điện VIII chính thức công bố kế hoạch lùi lại sau năm 2030.

Báo cáo của Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham) trong khuôn khổ Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2021 cho biết các công ty Hàn Quốc, trong đó có KOGAS đang quan tâm đến sản xuất điện LNG.

Đặc biệt, hiện có nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc, bao gồm Hanwha, KOSPO và KOGAS, đang tham gia trong dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng giai đoạn 1 tại tỉnh Quảng Trị, với dự kiến sẽ bắt đầu khai thác thương mại vào giai đoạn 2026 – 2027.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tiến độ dự án vốn được phê duyệt trong quy hoạch điện trước đây thuộc giai đoạn 2026 – 2027, nay lại được chuyển sang thời hạn sau 2040 theo Dự thảo Quy hoạch điện VIII, buộc các nhà đầu tư và chính quyền tỉnh phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng.

“Chúng tôi rất mong chính phủ Việt Nam quan tâm và tạo điều kiện để dự án có thể được thực hiện như kế hoạch ban đầu”, báo cáo từ KoCham nhấn mạnh đề nghị.

Quy hoạch dự án điện bỗng lùi 10 năm, nhà đầu tư Hàn ‘kêu cứu’
Danh mục các dự án điện giai đoạn 2036 - 2040 và 2041 - 2045 trong Dự thảo quy hoạch điện VIII tháng 9/2021.

Theo phân tích từ phía nhà đầu tư Hàn Quốc, dù nằm ở vị trí khá xa so với khu vực có nhu cầu điện, dẫn đến lo ngại về chi phí truyền tải điện, dự án Hải Lăng giai đoạn 1 1.500MW có những điểm phù hợp với lợi ích phát triển của Việt Nam.

Thứ nhất, dự án tiếp tục sử dụng lưới điện quốc gia hiện có mà không cần mở rộng thêm. Theo đề án tiền khả thi do Viện Năng lượng thực hiện, dự án Hải Lăng giai đoạn 1 có thể hoạt động bình thường mà không cần mở rộng mạng lưới truyền tải điện hiện có.

Nhìn chung, tổn thất trong quá trình truyền tải điện trên lưới điện 500kV không đáng kể, với tỷ lệ khoảng 0,1% tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra khu vực phía Bắc. Theo KoCham, đây là mức tổn thất hợp lý hoàn toàn có thể bù đắp, bởi việc triển khai hệ thống LNG có tính kinh tế và mức độ cạnh tranh tốt do điều kiện ưu việt về địa lý.

Thứ hai, vị trí tối ưu để phát triển LNG. Xét về phương diện trang thiết bị cảng biển và chi phí vận hành các tàu chở LNG cần thiết cho việc thực hiện phát triển dự án LNG, khu vực đất dành cho dự án Hải Lăng có tính kinh tế và ổn định vì đảm bảo mực nước sâu cần thiết, đảm bảo cho việc cập cảng của tàu chở LNG – đây là vị trí khá hiếm ở Việt Nam.

Ở miền Nam, hay miền Bắc, độ sâu mực nước của hầu hết các khu vực ven biển thấp, do đó cần phải tiến hành nạo vét quy mô lớn hoặc thành lập các các bến LNG nổi xây dựng các đường ống dài ngầm dưới biển để các tàu chở LNG có thể tiếp cận.

Thứ ba, năng lực của nhà đầu tư để tiến hành dự án kịp thời và đạt hiệu quả kinh tế.

Theo đó, KoCham nhấn mạnh rằng KOGAS có năng lực cung cấp LNG một cách hiệu quả về kinh tế nhất cho Việt Nam, nhờ có sức mua LNG tương đương 9% tổng quy mô giao dịch LNG toàn cầu (35 triệu tấn mỗi năm).

Trong khi đó, KOSPO có số lượng nhà máy điện LNG lớn nhất tại Hàn Quốc, vì vậy có năng lực sản xuất điện LNG, về công nghệ vận hành liên quan và năng lực đàm phán thiết bị chính.

Thứ tư, dự án đóng góp cho sự phát triển đồng đều trên toàn quốc.

Theo KoCham, dự án sẽ góp phần vào công cuộc phát triển cân bằng các tỉnh thành ở miền Trung, và tạo sức sống cho các khu liên hợp công nghiệp mới trong khu vực, như khu kinh tế Đông Nam thuộc tỉnh Quảng Trị, và khu Chân Mây Lăng Cô của Huế.

Bên cạnh đó, có thể truyền tải điện năng đến các khu vực phía Bắc hoặc phía Nam, giúp cung cấp điện ổn định trong nước.

Mặc dù sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch, sản xuất điện LNG là giải pháp cầu nối tối ưu giúp đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0, với phụ tải cơ bản ổn định trong quá trình tiến tới thay thế nguồn phát điện than.

Đồng thời, dự án Hải Lăng có thể tuân thủ đúng tiến độ kế hoạch của quy hoạch trước đây.

“Chúng tôi xin lưu ý rằng, nếu trong Quy hoạch điện VIII công bố kế hoạch lùi lại sau năm 2030, việc phát triển dự án có thể trở thành bất khả thi trên thực tế, ví dụ như sẽ gặp khó khăn trong phối hợp với các công ty tài chính, xây dựng và thiết bị vốn đang có ý định tham gia vào dự án Hải Lăng”, KoCham nhấn mạnh trong báo cáo. 

Theo giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tổng vốn đầu tư của dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng, giai đoạn 1 – 1.500MW là 53.668 tỷ đồng, tương đương 2,32 tỷ USD.

Trong đó, vốn góp của tổ hợp nhà đầu tư để thực hiện dự án là 13.416 tỷ đồng, (T&T Group góp 40%, mỗi nhà đầu tư Hanwha, Kospo và Kogas góp 20%).