Đừng để doanh nghiệp bị bán hớ vì thiếu giá trị thương hiệu

Minh Anh - 11:12, 20/09/2017

Thương hiệu được coi là một trong những tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Ở các nước trên thế giới, 47% giá trị của các công ty là tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu, thế nhưng ở Việt Nam, giá trị thương hiệu lại chưa được xác định như giá trị tài sản của doanh nghiệp.

Đừng để doanh nghiệp bị bán hớ vì thiếu giá trị thương hiệu
Việt Nam chưa có sự thống nhất về phương pháp định giá thương hiệu, các quy định chưa đầy đủ, dù tài sản vô hình nói chung hay thương hiệu nói riêng đã được ghi nhận trên các báo cáo tài chính.

Điều này khiến cho Nhà nước có thể bị thất thoát một lượng tiền lớn trong quá trình cổ phần hóa, còn doanh nghiệp thì bị thiệt thòi trong cạnh tranh, nhượng quyền thương mại hay khi mua bán, sáp nhập...

Khoảng trống pháp lý và sự thiếu thống nhất trong phương pháp xác định giá trị thương hiệu

Tại Hội thảo về Xây dựng - phát triển - định giá thương hiệu doanh nghiệp do Bộ Tài chính mới tổ chức tại Hà Nội, ông Samir Dixit, Giám đốc điều hành Công ty tư vấn chiến lược và đánh giá thương hiệu Brand Finance châu Á Thái Bình Dương, đánh giá, các thương hiệu của Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển nhanh chóng. Năm 2016, Việt Nam đứng thứ 48 trong bảng đánh giá Top các thương hiệu quốc gia trên thế giới với trị giá 141 tỷ USD.

Theo ông Samir, kể cả trong giai đoạn doanh nghiệp thua lỗ và mọi tài sản của công ty đều bị khấu hao thì giá trị thương hiệu vẫn luôn là con số dương, không bị khấu hao. Thậm chí, ngay cả khi doanh nghiệp đã “chết”, thương hiệu sẽ vẫn còn. Ông Samir nêu ví dụ, Tập đoàn nổi tiếng Leman của Mỹ dù đã phá sản, nhưng nếu muốn sở hữu thương hiệu này, nhà đầu tư vẫn phải trả tiền.

Năm 2016, Brand Finance đã xếp hạng Vietinbank thuộc Top 400 Thương hiệu ngân hàng toàn cầu với giá trị thương hiệu đạt 249 triệu USD, thương hiệu của Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) đạt 2,686 tỷ USD, Vinaphone là 1,04 tỷ USD, Mobifone là 391 triệu USD...

Ở các nước trên thế giới, 47% giá trị của các công ty là tài sản vô hình. Trong khi tại Việt Nam, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp lại không tính được vì nó không nằm trong bảng cân đối kế toán. Trong quá trình theo dõi sự biến động tài sản, doanh nghiệp chưa quan tâm đến sự biến động của tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu. Vì vậy, khi tham gia những cuộc mua bán, sáp nhập, chuyển nhượng, IPO, phát hành cổ phiếu…, các doanh nghiệp của Việt Nam đã bị mất đi lượng tài chính không nhỏ.

Ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính, cho biết, năm 2016, Brand Finance đã xếp hạng Vietinbank thuộc Top 400 Thương hiệu ngân hàng toàn cầu với giá trị thương hiệu đạt 249 triệu USD, thương hiệu của Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) đạt 2,686 tỷ USD, Vinaphone là 1,04 tỷ USD, Mobifone là 391 triệu USD...

Tuy nhiên, các giá trị thương hiệu nói trên lại chưa được xác định như giá trị tài sản doanh nghiệp. Không những thế, nhiều doanh nghiệp Việt đã sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, nhưng khi “xuất ngoại” các sản phẩm đó vẫn phải núp dưới tên của các thương hiệu có giá trị trên thế giới thì mới có thể vào được thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, lại có không ít doanh nghiệp mạnh tay chi tiền để xây dựng thương hiệu, nhưng do không xác định được giá trị thương hiệu nên chẳng khác nào ném tiền qua cửa sổ.

Nói cách khác, việc xác định giá trị, nhượng quyền sử dụng thương hiệu, góp vốn liên doanh, liên kết... bằng giá trị thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn một khoảng trống. Các đơn vị tư vấn thẩm định giá vẫn lúng túng khi thực hiện những nội dung này.

Ngay cả các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa cũng đã thuê công ty tư vấn chuyên nghiệp, song kết quả xác định giá trị doanh nghiệp nói chung và giá trị thương hiệu nói riêng thường rất khác nhau. Theo ông Tiến, thực tế này có thể dẫn đến việc Nhà nước bị thất thoát lớn trong quá trình cổ phần hóa. Đặc biệt tới đây, khi Việt Nam thực hiện cổ phần hóa nhiều tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn, các doanh nghiệp sẽ bị thiệt thòi trong cạnh tranh, nhượng quyền thương mại hay mua bán, sáp nhập...

Ông Tiến cho rằng, nguyên nhân chính của tình trạng này là do Việt Nam chưa có sự thống nhất về phương pháp định giá thương hiệu, các quy định chưa đầy đủ, dù tài sản vô hình nói chung hay thương hiệu nói riêng đã được ghi nhận trên các báo cáo tài chính.

Thực tế, Nghị định 109/2008/NĐ-CP của Chính phủ về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đến Nghị định 59/2011/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (Nghị định số 59) đều đã xác định lợi thế kinh doanh, bao gồm cả giá trị thương hiệu. Tuy nhiên, những quy định này lại không phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 - giá trị thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa được coi là tài sản cố định vô hình.

Tháo gỡ vướng mắc bằng những đề xuất và quy định mới

Việc thiếu các cơ sở pháp lý về thẩm định giá trị thương hiệu doanh nghiệp đã gây ra vướng mắc trong quá trình thực hiện, vì vậy nó đang rất cần giải pháp để tháo gỡ. 

Từ góc độ thẩm định giá, ông Vũ An Khang - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC) cho rằng: hiện nay, Nhà nước đã có quy định tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 về định giá tài sản vô hình nhưng lại không có công thức cụ thể về định giá thương hiệu, bởi vậy, việc triển khai trong thực tế còn gặp khó khăn.

Theo ông Khang, Thủ tướng Chính phủ thường đề nghị Kiểm toán Nhà nước kiểm tra lại kết quả tư vấn thẩm định giá doanh nghiệp trước khi Bộ chủ quản công bố giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước luôn phải tuân thủ theo đúng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nên đôi lúc còn thiếu linh hoạt. Để thực hiện tốt yêu cầu này, công tác kiểm toán cần linh hoạt hơn, nhất là phải lưu tâm tới các văn bản quy phạm pháp luật sắp có hiệu lực thi hành tại thời điểm kiểm toán. 

"Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp và hội nhập mạnh mẽ nên các thương vụ mua bán, sáp nhập, phát hành cổ phiếu diễn ra ngày càng nhiều. Nếu doanh nghiệp không quan tâm tới việc định giá thương hiệu để tính giá trị này vào giá trị doanh nghiệp thì rất có thể tài sản sẽ bị bán hớ"

Chuyên gia định giá thương hiệu Samir Dixit

Ông Khang đề nghị, đối với phần xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa, bước đầu tiên là phải tính toán giá trị thương hiệu dựa trên những giá trị có thể “đong đếm” được. Sau đó, cơ quan quản lý phải dành các hạng mục để công ty tư vấn xây dựng và tính toán một số tiêu chuẩn định giá tài sản vô hình cho doanh nghiệp như: bí quyết công nghệ, phần mềm độc quyền, kỹ thuật kinh doanh… Ví dụ, quá trình xác định giá trị doanh nghiệp đã công bố giá trị doanh nghiệp là 1.000 tỷ đồng, chia ra 1 triệu cổ phần với mệnh giá 10.000 đồng/cổ phần. Tuy nhiên, khi thực hiện cổ phần hóa, doanh nghiệp không thể công bố 10.000 đồng/cổ phần mà phải để đơn vị định giá tính toán hết các tiềm năng của doanh nghiệp, từ đó đề xuất giá mới, có thể sẽ là 15.000-18.000 đồng/cổ phần. 

Chuyên gia định giá thương hiệu Samir Dixit khuyến cáo, Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp và hội nhập mạnh mẽ nên các thương vụ mua bán, sáp nhập, phát hành cổ phiếu diễn ra ngày càng nhiều. Nếu doanh nghiệp không quan tâm tới việc định giá thương hiệu để tính giá trị này vào giá trị doanh nghiệp thì rất có thể tài sản sẽ bị bán hớ. Vì thế, sau khi xác định tài sản hữu hình đã được ghi nhận trên báo cáo tài chính, doanh nghiệp nên cộng thêm khoảng 20-25% giá trị vô hình vào giá trị tài sản, sau đó mới tính giá trị doanh nghiệp.

Để xử lý những bất cập nói trên, các cơ quan chức năng đã bổ sung một số quy định pháp lý, đặc biệt là tiến hành sửa đổi Nghị định số 59, Nghị định số 189/2013/NĐ-CP và Nghị định số 116/2015/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59. Dự kiến, quy định mới sẽ trao quyền chủ động cho các doanh nghiệp tư vấn thẩm định giá trong việc thẩm định và tư vấn cho doanh nghiệp về giá trị thương hiệu, nhãn hiệu, tài sản vô hình nhằm hỗ trợ quá trình xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn hiện nay.

Dự thảo Nghị định số 59 sửa đổi quy định rõ, giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng, bảo vệ nhãn hiệu và tên thương mại trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 5 năm, bao gồm: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty... Đồng thời, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai được tính trên cơ sở khả năng sinh lời của lợi nhuận so với lãi suất trái phiếu chính phủ sẽ được tính vào giá trị doanh nghiệp.

Ông Đặng Quyết Tiến cho biết, tới đây, Bộ Tài chính sẽ giao cho các công ty tư vấn thẩm định giá có chức năng định giá tài sản tiến hành thẩm định tất cả các giao dịch có liên quan đến vấn đề giá trị của các tài sản vô hình.

Các công ty tư vấn thẩm định được giao nhiệm vụ này cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn thẩm định giá của Việt Nam và các thông lệ quốc tế để đề xuất phương pháp tính sao cho phù hợp với thực tiễn và hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp. Ngoài ra, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm hướng dẫn doanh nghiệp thoái vốn bằng thương hiệu giống như quy định thoái vốn bằng giá trị tiền, tài sản, hiện vật...

Trường hợp chưa cho phép doanh nghiệp giao dịch cổ phiếu tương ứng với giá trị vốn góp bằng thương hiệu hoặc bằng giá trị lợi thế kinh doanh đã tính vào giá trị doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề nghị cho phép loại trừ những giá trị này khỏi giá trị doanh nghiệp. Trường hợp không cho người sở hữu cổ phiếu hình thành từ việc góp bằng thương hiệu thực hiện giao dịch, Bộ Tài chính đề xuất cho phép doanh nghiệp này được rút vốn trực tiếp, tức là doanh nghiệp nhận vốn bằng thương hiệu được giảm vốn điều lệ.