Doanh nghiệp có khả năng phá sản sẽ tăng mạnh

Quỳnh Chi - 17:32, 03/04/2020

TheLEADERKhảo sát 510 doanh nghiệp của Đại học Kinh tế quốc dân cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp có khả năng phá sản sẽ tăng cao nếu dịch kéo dài đến quý III hoặc hết năm nay.

Doanh nghiệp có khả năng phá sản sẽ tăng mạnh
Nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản vì Covid-19

Kết quả khảo sát 510 doanh nghiệp của Đại học Kinh tế quốc dân cho biết, khu vực doanh nghiệp chịu tác động khá lớn từ dịch Covid-19. Có đến 93,9% doanh nghiệp được hỏi đánh giá dịch Covid-19 có tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. 

Tác động tiêu cực từ dịch bệnh này thể hiện ở nhiều khía cạnh, thứ nhất, kết quả sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp đang gặp phải bao gồm sụt giảm nguồn thu để bù đắp cho các chi phí khác; hoạt động sản xuất kinh doanh vận hành dưới mức bình thường; không có nguồn thu; không thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh, chẳng hạn, phải đóng cửa trường học, cơ sở sản xuất kinh doanh theo qui định để phòng chống dịch; hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được trong nước, không xuất khẩu được.

Trong đó, sụt giảm doanh thu đang là khó khăn lớn nhất mà nhiều doanh nghiệp gặp phải trong thời kỳ dịch bệnh. Cụ thể, 20,2% doanh nghiệp khảo sát chịu ảnh hưởng tiêu cực cho rằng doanh thu của mình sụt giảm từ 80% trở lên; 28,4% doanh nghiệp bị sụt giảm từ 50 - 80% doanh thu.

Trong khi doanh thu bị sụt giảm nặng nề, các doanh nghiệp vẫn phải gánh chịu nhiều khoản chi phí lớn. Kết quả khảo sát cho thấy, chi phí nhân công lao động đang là gánh nặng lớn nhất của 34,5% doanh nghiệp dưới tác động của dịch Covid-19. Tiếp theo lần lượt là khoản chi trả lãi vay ngân hàng, chi phí hoạt động thường xuyên, chi phí thuê mặt bằng.

Ở khía cạnh thứ hai, số lượng, quy mô doanh nghiệp suy giảm cùng với đó là lao động mất việc làm và thất nghiệp gia tăng. Trong hai tháng đầu năm có 16.151 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 2.807 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Quy mô sản xuất của các doanh nghiệp cũng bị thu hẹp. Tính đến 20/3/2020, đã có trên 15% số doanh nghiệp phải cắt giảm quy mô sản xuất.

Khảo sát của Đại học Kinh tế quốc dân cho thấy, nếu ước tính số lao động bình quân một doanh nghiệp khoảng 25 người thì trong hai tháng đã có khoảng 400 nghìn lao động bị ảnh hưởng do các doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Ước tính số lao động bị giảm giờ làm hoặc mất việc làm khoảng 440.000 - 880.000 người. Nếu dịch bùng phát, số lao động bị giảm giờ làm hoặc bị mất việc làm khoảng 880.000 - 1,32 triệu người. 

Kết quả từ khảo sát này cũng chỉ ra nhiều giải pháp của các doanh nghiệp để đối phó với những khó khăn do tác động của đại dịch.

Theo đó, 65,5% doanh nghiệp thực hiện cắt giảm chi phí
hoạt động thường xuyên; 35,3% doanh nghiệp phải cắt giảm lao động; 34% phải cắt giảm lương nhân công lao động và 34,5% doanh nghiệp đã phải cho lao động nghỉ việc không lương; 44,7% doanh nghiệp cắt giảm quy mô sản xuất kinh doanh; 34,7% các doanh nghiệp lựa chọn tạm dừng hoạt động sản xuất kinh doanh để chờ qua thời kỳ khó khăn và 15,1% doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi hình thức sản xuất kinh doanh cho phù hợp với bối cảnh mới.

Mặc dù các doanh nghiệp đã có nhiều hành động nhằm đối phó với ảnh hưởng tiêu cực của Covid-19 nhưng nếu dịch bệnh tiếp tục lan rộng và kéo dài, nhiều nguy cơ xấu có thể xảy ra. Theo đánh giá của các doanh nghiệp được khảo sát, dịch bệnh càng kéo dài, khả năng phá sản của các doanh nghiệp càng cao. 

Cụ thể, nếu dịch Covid-19 kéo dài đến hết tháng 4/2020, 49,2% doanh nghiệp vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh; 31,9% cắt giảm quy mô sản xuất; 18,1% phải tạm dừng hoạt động và 0,8% có khả năng phá sản. 

Tuy nhiên, nếu dịch kéo dài đến hết tháng 6/2020, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn khi chỉ còn 14,9% doanh nghiệp duy trì được hoạt động; 46,6% doanh nghiệp tiếp tục cắt giảm qui mô; 32,4% sẽ tạm dừng hoạt động và 6,1% doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Tỷ lệ doanh nghiệp có khả năng phá sản sẽ tăng cao lên mức 19,3% nếu dịch kéo dài đến hết tháng 9/2020 và 39,3% nếu dịch kéo dài đến hết năm nay.

Bên cạnh các chính sách đã được ban hành đến cuối tháng 3/2020 của Chính phủ trong nỗ lực giải cứu các doanh nghiệp và người lao động khỏi những tác động tiêu cực của dịch bệnh, các chính sách tiếp theo mà các doanh nghiệp được khảo sát đánh giá cao lần lượt là miễn, giảm lãi phí ngân hàng; hỗ trợ cho vay vốn với mức lãi suất ưu đãi; và cơ cấu lại thời hạn trả nợ và các khoản nợ. 

Trong bối cảnh nguồn thu sụt giảm, nguồn vốn sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, các chính sách hỗ trợ cho vay vốn với mức lãi suất ưu đãi là rất cần thiết nhằm giúp cho các doanh nghiệp duy trì và khôi phục sản xuất kinh doanh. Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, hiện tại, nhiều ngân hàng thương mại đã thông báo giảm lãi suất cho vay tối đa 2,5%/năm so với biểu lãi suất thông thường, nhất là với những lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế. 

Các chính sách khác được cho là cần thiết trong việc giúp giảm chi phí hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong khắc phục những hậu quả do dịch Covid-19 gây ra bao gồm: tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, không tăng chi phí điện, nước và rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. 

Nhóm khảo sát của Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, cần phải xây dựng nhiều kịch bản chính sách kinh tế khác nhau từ ngắn đến dài hạn nhằm ứng phó với tình hình dịch ở cả Việt Nam lẫn các quốc gia khác trên thế giới. Mức độ kết nối rất lớn của Việt Nam với chuỗi giá trị toàn cầu và các biện pháp giãn cách xã hội do các nước áp dụng dẫn đến việc đại dịch có thể được kiểm soát ở Việt Nam cũng không thể làm cho nền kinh tế phục hồi ngay nếu nó vẫn tiếp diễn ở các quốc gia khác.

Nếu bệnh dịch trong nước có thể kiểm soát ngay trong tháng 4/2020 hoặc cùng lắm đến hết quý II thì phản ứng chính sách nên mang tính “hỗ trợ”. Nếu bệnh dịch kéo dài hơn (đến quý III hoặc hết năm 2020), Chính phủ cần tính tới các biện pháp can thiệp mạnh mẽ hơn mang tính “giải cứu”. Các giải pháp chính sách đưa ra cần tính đến độ trễ trong quá trình ban hành và triển khai để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả.