Khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ chưa được định nghĩa rõ ràng

Nhật Hạ - 16:25, 31/05/2022

TheLEADERHiện có sự lúng túng trong việc xác định hợp đồng có đối tượng là tài sản trí tuệ. Khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ cần được xác định rõ trong dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ, đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh cho biết.

Khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ chưa được định nghĩa rõ ràng
Đại biểu Thạch Phước Bình (tỉnh Trà Vinh). Ảnh: Trang tin Quốc hội.

Một số khái niệm trong sở hữu trí tuệ còn chung chung

Góp ý vào dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ vào ngày 31/5 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, đại biểu Thạch Phước Bình (tỉnh Trà Vinh) cho biết dự thảo luật đã ghi nhận và bảo hộ nhiều loại tài sản trí tuệ như quyền tác giả và quyền liên quan đối với tác phẩm phần mềm, hệ thống thông tin hay sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh.

Tuy nhiên, trong đó, một số vấn đề chưa được làm rõ, gây nhiều khó khăn khi thực tiễn triển khai. Cụ thể như khái niệm ‘bí mật kinh doanh’ trong Luật Sở hữu trí tuệ vẫn còn chung chung và “có nhiều điều khó hiểu”, dẫn đến gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước khi áp dụng quy định này trong thực tế.

Mặt khác, dự thảo luật cũng chưa xác định khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ nên hiện có sự lúng túng trong việc xác định hợp đồng có đối tượng là tài sản trí tuệ. Nếu như trong các lĩnh vực kinh tế khác, giá trị tài sản lớn nhất đối với doanh nghiệp là nhà máy, thiết bị, công trình thì trong kinh tế số, tài khoản tài sản có giá trị nhất lại là phần mềm dữ liệu, hệ thống thông tin. Đây đều là các đối tượng tài sản được bảo hộ theo pháp luật về sở hữu trí tuệ, theo đại biểu Thạch Phước Bình.

Ông cũng đề nghị cần nghiên cứu, bổ sung vào dự thảo luật lần này các quy định liên quan đến nội dung chuyển đổi số.

Bên cạnh những góp ý trên, ông Bình đánh giá cao việc dự thảo lần này quy định về đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp trực tuyến như đăng ký sở hữu công nghiệp ở cấp độ 3 và đang triển khai hệ thống nộp đơn điện tử ở cấp độ 4, tra cứu khả năng bảo hộ trực tuyến và tra cứu cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu hàng hóa hoặc kiểu dáng công nghiệp trực tuyến.

Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Văn An (tỉnh Thái Bình) đề nghị rà soát lại việc giải thích khái niệm “Nhãn hiệu nổi tiếng” đảm bảo phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Theo dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam”.

Một số đại biểu khác cũng cho rằng cần xác định rõ nội hàm, ý nghĩa của một số cụm từ trong dự thảo Luật như: “sao chép hợp lý”, “thiệt hại một cách bất hợp lý”, “thống nhất ý chí”; “khi biết hoặc có cơ sở để biết”...

Xử lý nhãn hiệu gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng

Để tăng thu hút đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ và sáng tạo mới, đại biểu Dương Bình Phú (tỉnh Phú Yên) cho rằng cần nâng mức trần thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí lên mức 20% lợi nhuận do sử dụng và 25% tổng số tiền nhận được do chuyển giao quyền sử dụng. Thay vì mức 15% lợi nhuận do sử dụng và 20% tổng số tiền nhận được do chuyển giao quyền sử dụng như trong dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ.

Về hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy định tại Điểm d, Khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Các hành vi sau đây bị coi là cạnh tranh không lành mạnh, chiếm hữu và sử dụng tên miền hoặc tương tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng với dụng ý xấu, lợi dụng uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng nhằm thu lợi bất chính”.

Như vậy, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ đã thu hẹp phạm vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới tên miền là loại bỏ hành vi đăng ký và hành vi bị xử lý đáp ứng cùng lúc cả 2 điều kiện chiếm hữu và sử dụng.

Đại biểu Lê Hoàng Anh (tỉnh Gia Lai) cho rằng điều này dẫn đến 3 hệ lụy. Một là, đi ngược lại xu hướng thế giới về chính sách thống nhất giải quyết tranh chấp tên miền. Chính sách này quy định: "Hành vi chiếm giữ tên miền mà không sử dụng trong đa số các vụ việc bị coi là hành vi có dụng ý xấu và tên miền được trả lại cho chủ sở hữu nhãn hiệu".

Quy định này dễ dẫn đến bị lợi dụng theo hướng có lợi cho những đối tượng đầu cơ tên miền, gây cản trở cho hoạt động kinh doanh hợp pháp của chủ sở hữu, nhãn hiệu, tên thương mại. Cùng với đó sẽ gây lãng phí tài nguyên số của quốc gia do tên miền bị đăng ký nhưng không nhằm mục đích sử dụng thực tế.

Do đó, đại biểu Hoàng Anh đề nghị chỉnh lý lại Điểm d Khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ như sau: "Các hành vi sau đây bị coi là hành vi không cạnh tranh lành mạnh: đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc gây tương tự, nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng hoặc có dụng ý xấu hoặc nhằm thu lợi bất chính”.

Khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ chưa được định nghĩa rõ ràng 1
Đại biểu Lê Hoàng Anh (tỉnh Gia Lai). Ảnh: Trang tin Quốc hội

Về chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu do nhãn hiệu sử dụng theo cách thức gây nhầm lẫn cho người người tiêu dùng quy định theo hướng thu hẹp các hành vi gây nhầm lẫn cho công chúng chỉ còn 3 hành vi gồm bản chất, chất lượng và nguồn gốc địa lý. Đại biểu Lê Hoàng Anh cho rằng như vậy sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng và chủ nhãn hiệu.

Ông nêu rõ, trước đó, tại kỳ họp thứ 2 đã có luận giải và lấy ví dụ rất cụ thể về nhãn hiệu TOMTO gây nhầm lẫn với nhãn hiệu OMO. Lần này, đại biểu lấy thêm một ví dụ nữa mong Quốc hội xem xét lại điều khoản này, cụ thể là nhãn hiệu Inax của Tập đoàn Lixil và nhãn hiệu Isavi của Công ty TNHH Lisavi Việt Nam không liên quan đến bản chất lượng và nguồn gốc địa lý nhưng gây nhầm lẫn.

Đại biểu đề nghị chỉnh lý Điểm h Khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí theo hướng: “Việc sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ bởi chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch, đặc biệt là về bản chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa và dịch vụ đó...” và đề nghị cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra sẽ nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo Luật.

Thời hạn phản đối đơn đăng ký sở hữu công nghiệp

Liên quan đến việc xác định tính mới của sáng chế, dự thảo Luật được đề xuất quy định theo hướng coi sáng chế bị mất tính mới nếu bộc lộ trong đơn đăng ký sáng chế khác có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn nhưng được công bố vào ngày sau ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế đó.

Theo đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (tỉnh Khánh Hòa), nguyên tắc nộp đơn đầu tiên đã được quy định rõ tại Điều 60 dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ rằng trường hợp đơn đăng ký sáng chế có ngày nộp đơn ngành ưu tiên sớm hơn bị rút sau khi công bố thì không thể cấp văn bằng bảo hộ cho đơn đăng ký sáng chế của ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên muộn hơn được vì đã bị mất tính mới.

Tuy nhiên, ông cho rằng, trong trường hợp cả đơn nộp trước và đơn nộp sau đều đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ nhưng nếu đơn nộp trước bị từ bỏ, rút bỏ thì đơn nộp sau phải được cấp văn bằng bảo hộ. Do đó, đại biểu đề nghị đánh giá kỹ lại quy định này để đảm bảo tính khả thi của dự thảo luật.

Khái niệm ‘tài sản trí tuệ’ chưa được định nghĩa rõ ràng 2
Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (tỉnh Khánh Hòa). Ảnh: Trang tin Quốc hội

Về phản đối đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bổ sung Điều 112A vào sau Điều 112, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh cho rằng, việc đưa ra thời hạn cho việc nộp đơn phản đối là hợp lý nhằm hạn chế thực trạng trì hoãn, kéo dài thời gian xử lý đơn.

Tuy nhiên việc quy định thời hạn 5 tháng để phản đối là quá ngắn vì sẽ ảnh hưởng đến quyền của người thứ ba nếu có dự định phản đối, đặc biệt là các chủ thể mà họ có quyền nhưng họ lại ở nước ngoài. Trong trường hợp đơn sửa đổi và được công bố lại thì mốc nào sẽ được sử dụng để tính thời hạn phản đối.

Để đảm bảo thời gian cần thiết cho bên có liên quan trong việc thu thập tài liệu bằng chứng, ông Thịnh đề xuất khoảng thời gian hợp lý hơn đối với việc phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu là 8 tháng thay cho 5 tháng kể từ ngày đơn đăng ký nhãn hiệu được công bố.