Hai nhà máy nhiệt điện Na Dương I và Na Dương II đứng trước nguy cơ khó khăn vì nguồn cung than không đảm bảo, bắt nguồn từ sản lượng khai thác của mỏ than Na Dương sụt giảm đáng kể.
Hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ghi nhận hai nhà máy nhiệt điện Na Dương I đã vận
hành nhiều năm qua và Na Dương II được chấp thuận chủ trương bốn tháng trước với giá trị khoảng
4.100 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
Tuy nhiên,
tình trạng sản xuất kinh doanh của Na Dương I đang sụt giảm mạnh khi lượng điện
sản xuất 6 tháng đầu năm 2024 đạt khoảng 353.920MW, giảm gần 11,3% so cùng kỳ
năm 2023.
Nguyên nhân
là nguyên liệu sản xuất nhiệt điện không đảm bảo, doanh nghiệp phải nhập than từ
nước ngoài về để trộn với than do Công ty Than Na Dương khai thác với chi phí
cao - dẫn đến giá thành điện tăng, không đảm bảo cạnh tranh để tham gia thị trường,
chào bán điện khó khăn.
“Sức khỏe”
của Công ty Than Na Dương cũng gặp vấn đề, với sản lượng than khai thác nửa đầu
năm nay được hơn 171 nghìn tấn, đạt 45% kế hoạch và giảm gần 16% so cùng kỳ năm
trước. Lý do của tình trạng này xuất phát từ sản lượng khai thác than sơ khai của công ty không đảm bảo cho sản xuất điện và một số lĩnh vực sản xuất
công nghiệp khác.
Trước thực
tế khó khăn của cả hai nhà máy, ông Đoàn Thanh Sơn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lạng
Sơn đề nghị Công ty than Na Dương đẩy nhanh phối hợp với các cơ quan liên quan
xin cấp phép khai thác, mở rộng nâng công suất mỏ than Na Dương từ 600 nghìn tấn
lên 1,2 triệu tấn/năm.
Việc này nhằm
đảm bảo cung cấp đủ than cho nhà máy nhiệt điện Na Dương I hiện hữu và Na Dương II trong thời gian tới.
Bốn tháng trước,
dự án nhiệt điện Na Dương II được cấp chủ trương đầu tư cho Tổng công ty điện lực TKV với công suất 110MW, trị giá gần 4.100 tỷ đồng.
Nhiên liệu
chính vận hành nhà máy là nguồn than sản xuất từ Công ty Than Na Dương, thuộc Tổng
công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc - TKV.
Dự kiến,
khi đi vào vận hành năm 2026, nhiệt điện Na Dương II sẽ cung cấp khoảng 750 triệu
kWh lên lưới quốc gia, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho các tỉnh Lạng
Sơn, Cao Bằng và khu vực Đông Bắc.
Mối lo thủ tục
Tuy nhiên,
dự án nâng công suất mỏ than Na Dương lên gấp đôi vẫn đang trắc trở ở khâu thủ
tục suốt hai năm nay. Đồng nghĩa, khó khăn tiếp tục đeo bám nhiệt điện Na Dương I
và trở thành bài toán cần tính tới trong vận hành Na Dương II khi đích hoàn
thành chỉ còn khoảng 16 tháng.
Cụ thể,
trong diễn biến mới nhất, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã “bác” hồ sơ đề
nghị chuyển mục đích sử dụng rừng phục vụ dự án mở rộng, nâng cấp công suất mỏ
than Na Dương.
Một trong
những lý do dẫn tới quyết định này là chưa đủ cơ sở để xác định dự án phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021 - 2030 cấp huyện theo quy định pháp luật
đất đai.
Cụ thể, tại
tờ trình hồi tháng 7/2022, UBND tỉnh Lạng Sơn xác định dự án có quy mô sử dụng
đất khoảng 1.494ha. Tuy nhiên, tới tháng 1 năm nay, UBND tỉnh Lạng Sơn xác định
dự án có tên trong Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 huyện Lộc Bình
với tổng diện tích đất được phân bổ khoảng 175ha, tức thấp hơn 1.319ha so với
quy mô sử dụng đất của dự án.
Tiếp theo, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá chưa đủ cơ sở để xác định dự án
phù hợp với kế hoạch sử dụng đất năm 2024 cấp huyện được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
Theo đó, UBND
tỉnh Lạng Sơn chưa cung cấp hồ sơ, tài liệu làm rõ sự phù hợp của dự án với kế
hoạch sử dụng đất năm 2024 huyện Lộc Bình được cấp thẩm quyền phê duyệt, vì vậy
không có cơ sở để đánh giá sự phù hợp của dự án với kế hoạch sử dụng đất năm
2024 huyện Lộc Bình.
Ngoài ra, tại
thời điểm UBND tỉnh Lạng Sơn trình hồ sơ đề nghị quyết định chủ trương chuyển mục
đích sử dụng rừng, việc đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch lâm nghiệp trên
cơ sở đánh giá dự án phù hợp với quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Lạng Sơn.
Tuy nhiên,
hiện quy hoạch tỉnh Lạng Sơn đã được Thủ tướng phê duyệt hồi tháng 3/2024. Do
đó, hồ sơ cần phải có đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch tỉnh Lạng Sơn được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Mỏ than Na
Dương, nay là Công ty Than Na Dương thuộc Tổng công ty công nghiệp mỏ Việt Bắc
được thành lập từ năm 1959 theo quyết định của Bộ Công nghiệp. Công ty được
UBND tỉnh Lạng Sơn cấp chứng nhận đầu tư lần đầu vào năm 2013 với dự án khai
thác lộ thiên mỏ than Na Dương.
Dự án được
cấp giấy phép khai thác khoáng sản vào cuối năm 2014, thời hạn 50 năm. Hai năm
sau đó, dự án có tên trong “Danh mục các dự án đầu tư mỏ than vào sản xuất” ban
hành kèm theo Quyết định 403 của Thủ tướng về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch
phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030.
Cùng năm
2016, sau khi được Bộ Công thương thẩm định thiết kế cơ sở và Tập đoàn công
nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam thông qua, chủ đầu tư quyết định phê duyệt dự án mở rộng, nâng công suất
mỏ than Na Dương.
Ba năm sau
đó, UBND tỉnh Lạng Sơn phê duyệt điều chỉnh chủ trương dự án mở rộng, nâng công
suất mỏ than Na Dương để đảm bảo cung cấp đủ, ổn định nguyên liệu than cho nhiệt
điện Na Dương I (đang hoạt động) và Na Dương 2 (đang triển khai các thủ tục
pháp lý để xây dựng).
Dẫu vậy, đến
nay, dự án đang chờ xử lý nút thắt mang tên chuyển mục đích sử dụng rừng và quy
hoạch, trong bối cảnh nhiệt điện Na Dương I khát than từng ngày.
Đáng chú ý,
ròng rã 3 năm qua, lần lượt UBND tỉnh Lạng Sơn và Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn đã không ít lần “bác” đề xuất dự án này với những vấn đề xoay quanh
chuyển mục đích sử dụng hàng chục ha đất lúa và hơn 311ha rừng tự nhiên.
Nhiệt điện
Na Dương II được bổ sung vào quy hoạch điện VI từ năm 2009. Dự án này tiếp tục
được quy hoạch vào tổng sơ đồ VII năm 2011, VII điều chỉnh năm 2016 và mới nhất
là VIII vào năm 2023 vừa qua.
Khoảng 3
năm trước, chủ đầu tư – Tổng công ty điện lực TKV ký hợp đồng thu xếp vốn thực
hiện dự án với ngân hàng BOC – chi nhánh Hồng Kông.
Tuy nhiên,
do ảnh hưởng của dịch Covid – 19 và khó khăn trên thị trường vốn quốc tế, nhà
thầu EPC không phát hành bảo đảm thực hiện hợp đồng đã ký. Qua đó dẫn tới phải
hủy thầu và ngân hàng BOC chấm dứt tài trợ vốn – giải thích một phần việc dự án
chưa đáp ứng tiến độ theo kế hoạch.
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, việc chuyển mục đích sử dụng 1.086ha rừng để thực hiện 4 dự án sẽ làm giảm cục bộ diện tích rừng lớn, từ đó có nguy cơ phá vỡ hệ sinh thái rừng trong khu vực, làm giảm vai trò phòng hộ của rừng.
Để từng bước thực hiện các cam kết của Việt Nam hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam sẽ không phát triển thêm các nhà máy nhiệt điện mới sau 2030. Năm 2045, công suất các nhà máy nhiệt điện than chỉ còn khoảng 13,2% trong tổng công suất các nhà máy điện.
Các doanh nghiệp nhiệt điện than đang phải đối mặt với thách thức từ nhiều phía, như nguồn nguyên liệu đầu vào đắt đỏ hơn, ít nguồn vốn hỗ trợ hơn, hay cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nguồn năng lượng tái tạo.
Hội thảo “Hạnh phúc trong Giáo dục” 2024 là cơ hội để nhà lãnh đạo giáo dục, giáo viên, và phụ huynh cùng thảo luận, khám phá những giải pháp xây dựng môi trường học đường tích cực, bền vững.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được kỳ vọng sẽ thay đổi diện mạo hạ tầng giao thông và tạo cú hích lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, dự án này cũng đặt ra nhiều câu hỏi về khả năng tham gia của nhà thầu xây dựng trong nước.
Xây dựng môi trường làm việc đa dạng và hòa nhập không chỉ mang đến nhiều cơ hội cho tất cả mà còn tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.